Ôn tập thi tốt nghiệp THPT Văn - Chuyên đề: Thơ Tố Hữu

Ôn tập thi tốt nghiệp THPT Văn - Chuyên đề: Thơ Tố Hữu

Chuyên đề 1: Tố Hữu - cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. Ở Tố Hữu có sự thống nhất chặt chẽ giữa nhà cách mạng, nhà chính trị và nhà thơ. Quá trình sáng tác của Tố Hữu gắn bó làm một với quá trình hoạt động cách mạng của ông và các nhiệm vụ của Đảng qua các giai đoạn lịch sử.

1. Từ ấy (1937-1946):

a. Có ba phần:

* Máu lửa là những vần thơ ngợi ca lý tưởng, khẳng định niềm tin và tương lai của cách mạng (Từ ấy, Tiếng hát sông Hương).

- Nó tố cáo những cảnh bất công trong xã hội (Hai đứa bé, Vú em ), kêu gọi đứng dậy đấu tranh (Đi đi em, Hồn chiến sĩ.)

* Xiềng xích là những sáng tác ở trong tù.

- Nó là tiếng nói của người chiến sĩ nguyện trung thành với lí tưởng, bất chấp “cái chết đã kề bên” (Con cá chột nưa).

 

doc 17 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 2042Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "Ôn tập thi tốt nghiệp THPT Văn - Chuyên đề: Thơ Tố Hữu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÀI LIỆU ÔN TẬP THI TỐT NGHIỆP THPT 2009
Chuyên đề: Thơ Tố Hữu
Chuyên đề 1: Tố Hữu - cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN 
I. Ở Tố Hữu có sự thống nhất chặt chẽ giữa nhà cách mạng, nhà chính trị và nhà thơ. Quá trình sáng tác của Tố Hữu gắn bó làm một với quá trình hoạt động cách mạng của ông và các nhiệm vụ của Đảng qua các giai đoạn lịch sử. 
1. Từ ấy (1937-1946): 
a. Có ba phần: 
* Máu lửa là những vần thơ ngợi ca lý tưởng, khẳng định niềm tin và tương lai của cách mạng (Từ ấy, Tiếng hát sông Hương). 
- Nó tố cáo những cảnh bất công trong xã hội (Hai đứa bé, Vú em), kêu gọi đứng dậy đấu tranh (Đi đi em, Hồn chiến sĩ....) 
* Xiềng xích là những sáng tác ở trong tù. 
- Nó là tiếng nói của người chiến sĩ nguyện trung thành với lí tưởng, bất chấp “cái chết đã kề bên” (Con cá chột nưa). 
- Sự gắn bó thủy chung với đất nước, đồng bào, đồng chí (Nhớ đồng, Nhớ người). 
* Giải phóng - Nói lên niềm vui của người tù cách mạng được trở về hoạt động. 
- Nó ca ngợi thành công của Cách mạng tháng Tám 1945. 
b. Đánh giá: 
* Từ ấy được viết do sự thôi thúc của hồn thơ sôi nổi Tố Hữu. 
* Nó tiếp nối truyền thống thơ ca phục vụ chiến đấu, cổ động cách mạng. 
* Nó không tách rời Thơ mới. Đó là cái tôi từ chối hạnh phúc cá nhân để lao vào bão táp cách mạng, cái tôi chân thật, có phần non nớt với những tâm tư sầu muộn trên con đường lột xác đến với cách mạng. 
2. Việt Bắc (1947-1954): 
* Cái tôi của nhà thơ được ẩn mình sau những nhân vật là quần chúng nhân dân. 
* Hình tượng Tổ quốc, Đất nước, Chiến khu được miêu tả thật là quần chúng nhân dân. 
* Hướng về nhân dân, tập thơ mang đậm màu sắc dân tộc (vận dụng ca dao, tục ngữ, cách nói của nhân dân). Phần cuối mang cảm hứng sử thi-trữ tình đầy âm vang thời đại (Ta đi tới, Việt Bắc). 
3. Gió lộng (1955-1961): 
* Niềm vui trước quan hệ của chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa hứa hẹn một đời sống ấm no hạnh phúc và “người yêu người sống để yêu nhau”. 
* Cảm hứng lãng mạn với cái tôi đại diện cho dân tộc, cho Đảng và cho thời đại được xuất hiện. 
* Có “những vần thơ tươi xanh” viết về miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội và có “những vần thơ lửa cháy” bày tỏ tình cảm Bắc - Nam và ý chí đấu tranh thống nhất nước nhà. 
4. Ra trận (1962-1972) và Máu và hoa (1972-1977): ra đời trong tình hình cả nước chống Mỹ. 
* Khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn anh hùng đã đặt ra những câu hỏi đầy tự hào: Dân tộc Việt Nam là ai? Sức mạnh Việt Nam bắt đầu từ đâu? 
* Giọng tâm tình chuyển sang nhu cầu chính luận. 
* Khuynh hướng khái quát, tổng kết lịch sử vang dội. 
* Cho ra hai thiên trường ca về Bác (Theo chân Bác) và về Đất nước nhân dân (Nước non ngàn dặm). 
II. Những nét phong cách cơ bản của thơ Tố Hữu: 
1. Là thơ trữ tình chính trị, đối tượng của văn học là con người được nhìn ở những quan hệ chính trị. Các vấn đề và sự kiện chính trị đã thành nguồn tình cảm lớn lao và khơi dậy cảm hứng nghệ thuật. 
2. Nội dung chính trị trong thơ Tố Hữu là lí tưởng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa. 
Tố Hữu mượn giọng điệu tâm tình để diễn đạt những tình cảm chính trị. Ông cũng dùng bút pháp tượng trưng ước lệ để thể hiện lý tưởng và ước mơ của mình (bài Tiếng chổi tre, Việt Nam - máu và hoa). 
Vì thế cảm hứng chủ đạo trong thơ Tố Hữu là thơ lãng mạn chủ nghĩa. 
3. Về nghệ thuật: Có tính dân tộc rất cao. 
* Thơ tuyên truyền nhưng có phẩm chất của thơ ca truyền thống (ca dao, dân ca, truyện Kiều - thể thơ lục bát khá nhuần nhuyễn). 
* Linh hồn quê hương trong những hình ảnh rất quen thuộc nhưng có sức lay động sâu xa (Bóng tre, bà mẹ, rặng dừa, ghe thuyền, bến nước). 
* Tính nhạc trong thơ Tố Hữu là nét phong cách đặc sắc nhất. 
III. Những nét phong cách của thơ Tố Hữu nó đều chứa đựng hai mặt: mạnh và yếu 
1. Tố Hữu là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng và thời đại cách mạng. Trong những năm chiến tranh nó thật sự lôi cuốn công chúng bởi nhà thơ đã nói được lý tưởng chính trị của người công dân. 
- Nhưng có trường hợp chính trị chưa phù hợp với chân lý đời sống, nhiều lúc cảm hứng nghệ thuật chưa đủ độ nên các bài thơ rơi vào minh họa giản đơn. Phần lớn các bài thơ là đại diện cho tiếng nói của dân tộc, của Đảng nên con người đời thường với rất nhiều các quan hệ xã hội bị lược bỏ. 
2. Nhà thơ rất say mê lý tưởng cho nên thường hiện thực hoá lí tưởng gây được hứng khởi và niềm tin vào hiện thực cách mạng cho mọi người. 
- Nhưng có lúc nó đã thoát li khỏi những vất vả, cần lao và những bất công vốn là một mảng hiện thực thứ hai không thể tránh khỏi trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ. 
3. Thơ Tố Hữu có thế mạnh là nói với người ta bằng giọng điệu tâm tình. 
- Nhưng không ít những câu khô khan, giáo huấn. 
4. Tính truyền thống và tính dân tộc đã hạn chế sự cách tân táo bạo và hiện đại hóa thơ Tố Hữu. 
B. LỜI BÌNH VỀ THƠ TỐ HỮU 
* Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Đó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca. 
 Thơ, với Tố Hữu, là hình thức tươi đẹp của hoạt động cách mạng của sự sống. Thơ Tố Hữu, trong thời kỳ đầu này, cốt yếu thuộc về dòng lãng mạn cách mạng. Danh từ này, theo định nghĩa của Goóc-ki, là “chữ nghĩa lãng mạn tích cực, nó nhằm tăng cường cái ý chí sống của con người, thức tỉnh trong tâm hồn con người cái quyết tâm phản kháng với hiện thực, với mọi áp bức của hiện thực”. 
Thơ Tố Hữu là lời tâm huyết của một chiến sĩ đang sống can đảm nêu cao lý tưởng phục vụ nhân dân, phục vụ chính nghĩa. 
Thơ Tố Hữu là “bó hoa lửa” lộng lẫy, nồng nàn. 
 Sau mười năm đó, khi cách mạng Việt Nam chuyển vào một giai đoạn mới, tập thơ Việt Bắc sẽ đánh dấu một gia đoạn mới trong sự nghiệp thơ ca của thi sĩ. Anh sẽ càng tắm mình vào đời sống chiến đấu lao động hàng ngày của quần chúng, và tiếng nói của anh sẽ càng đượm hơi ấm của quần chúng. (Đặng Thai Mai) 
* Tố Hữu đã làm khá tốt phương tiện làm sử, bằng hồn thơ xúc cảm mãnh liệt và suy nghĩ sâu của mình. Anh cũng đã phản ánh được những mặt chủ yếu của cuộc sống cách mạng chúng ta. Trước cách mạng, đấy là cuộc đời hoạt động và cuộc đời ở tù. Trong kháng chiến: những cảnh chiến đấu, những cảnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh với địch ở miền Nam, mối tình hữu nghị máu thịt của chúng ta với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. 
Mỗi đề tài trên đều được ghi lại bằng những bài thơ có giá trị của anh. 
 Cũng nên nói rằng: Cái chất chiến đấu thường làm cho thơ anh khỏe ra, rắn lại, linh hoạt, nhưng có đôi lúc đã làm thơ anh khô đi. Đấy là khi anh diễn đạt nó mà không vùi nó sâu hơn trong cảm xúc, trong tình thương là cái điều chính của tâm hồn anh. 
Cái gì làm cho Tố Hữu trong khi có những tìm tòi hiện đại vẫn giữ được màu sắc dân tộc ấy?... Đấy là nhờ nội dung, nhờ cách cảm xúc, nhờ phương pháp tạo hình, nhờ chữ nghĩa. Nhưng đấy cũng là nhờ ở cái man mác, mơ hồ (nhưng rất rõ rệt này), là cái âm nhạc của thơ anh. 
Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài làm chính Anh là con chim vụ ở đường bay hơn là ở bộ lông bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp. (Chế Lan Viên) 
* Tự bạch của nhà thơ Tố Hữu: Thơ tôi thuộc loại “trần trụi”, nghĩ sao nói thế, không có gì “bay bướm”. Cũng không có gì “bí hiểm”. Tuy vậy cũng không phải là không có gì đằng sau những câu chữ Tôi muốn thơ phải đọng lại một cái gì, phải thật là gan ruột của mình, thật là một “lời nhắn gửi”. 
Thể thơ lục bát truyền thống của Việt Nam ta có nhiều ưu thế về cấu trúc, về âm thanh, vừa có sức gợi cảm, vừa dễ nghe, dễ nhớ, dễ thuộc, lại thích hợp với cả trí thức lẫn người ít học nên tôi hay dùng Thể lục bát tưởng như dễ làm, thật ra lại dễ rơi vào tầm thường, vô duyên. Phải biết “chuyển hóa” thế nào cho phong phú, luôn luôn mới về mọi mặt giống như dùng hai cánh tay có vẻ đơn giản ấy thế nào để thành những điệu múa đẹp không bao giờ chán. Người làm thơ lại cần biết sử dụng nhiều thể thơ và cần kết hợp hoặc sáng tạo hoàn toàn mới. 
Thơ có ưu thế dễ nhớ vì thơ có tiết tấu, có vần điệu. Vần là một sáng tạo tuyệt vời của nghệ thuật thơ Theo tôi, vần chính là một điểm huyệt nhạy cảm, nếu biết “bấm” đúng thì có hiệu quả lớn cho sự truyền cảm. Cứ đọc Truyện Kiều thì thấy Nguyễn Du gieo vần đắt thế nào. 
Chuyên đề 2: Tâm tư trong tù
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN 
1. Bài thơ được viết ngay trong những ngày đầu tiên Tố Hữu bị bắt giam vào nhà lao Thừa Thiên. Bị giam trong xà lim hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài và với các bạn tù khác. Đây là chặng đường thử thách đối với người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi. Và mở ra những trang mới cho tập Từ ấy. Phần Xiềng xích ra đời. 
Bài thơ có hai phần. Phần đầu ba khổ, mỗi khổ 8 câu thơ nói về nỗi cô đơn, niềm khát khao hướng về cuộc sống bên ngoài nhà tù. Và phần sau là dự cảm về những gian lao thử thách trước mắt, tác giả ý thức được thân phận của mình trong tình cảnh mất tự do của cá nhân và của đất nước. Từ đó tự dặn lòng thề quyết giữ vững ý chí chiến đấu và phẩm giá của người cách mạng. Bài thơ kết cấu theo diễn biến tăng tiến của tâm trạng. Từ cảm xúc tình cảm đến nhận thức lý trí. 
2. Ấn tượng đầu tiên là nỗi cô đơn. Bốn câu đầu của khổ thứ hai được lặp ở bốn câu đầu một. Có sự nhớ lại niềm say mê bồng bột, niềm vui tươi trẻ của những ngày sống giữa bạn bè trong phong trào sôi nổi thì tác giả mới thấm thía nỗi cô đơn khi bị li cách khỏi môi trường hoạt động. 
Cảm xúc tinh tế nhạy bén, tình cảm gắn bó thiết tha với đời sống được tập trung trong sự lắng nghe những biến thái âm thanh ngoài tù vọng vào. “Tai mở rộng” bởi “lòng sôi rạo rực” bởi cuộc sống đã bị cách ly. Thính giác là khả năng duy nhất mà tác giả giao lưu với bên ngoài. 
Những âm thanh gợi cảm về buổi chiều, những âm thanh đó náo nức hơn: Chim “reo”, gió mạnh “lên triều” và tiếng dơi chiều đập cánh cũng trở nên vội vã. Khao khát sống với cuộc đời đầy biến động bên ngoài, hình dung rất rõ cả thế giới bên ngoài tác giả đã thể hiện một sức sống tuôn trào, một niềm yêu đời mãnh liệt. Và chân dung người cộng sản hiện lên rất đậm đà chất Người. 
3. Giữa những âm thanh như rất bề bộn ấy, tâm hồn nhạy cảm của tác giả đã đón nhận và lưu giữ lại được những âm thanh rất dễ bị chìm lấp đi “Nghe lạc ngựa.. đi về”. 
“Nghe lạc ngựa” là sự tác động bằng âm thanh nhưng “rùng chân bên giếng lạnh” là một hình ảnh mà mắt ta có thể nhìn thấy được. Sức tưởng tượng của câu thơ thật kỳ diệu. (“Một tiếng rao đêm” của em bé gái cũng khiến cho Tố Hữu thấy rất rõ em nhỏ đó như thế nào!). 
Cái cảm giác “lạnh” của buổi chiều trong cái “lạnh” của nước giếng, và nhất là cái “rùng chân” của con ngựa khiến cho nhạc ngựa cũng rung theo đã phát ra âm thanh nhỏ lọt qua khám giam để đến với người tù. Bức tranh không chỉ là ngoại cảnh mà chứa chất tâm trạng của nhân vật trữ tình: Rất thấm thía nỗi cô đơn và muốn “đạp tan phòng” mà ra với cuộc đời “ngoài kia sung sướng biết bao nhiêu”. 
Câu “Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về” lại là một âm thanh “xa” rất khó nghe mà nhà thơ đã nghe được. Đây là âm thanh đời thường vọng vào thế giới cô quạnh chốn tù đày. Câu thơ bình dị nhưng có sức lay động lớn. Nó cho ta thấy tấm lòng thương mến, khao khát được hòa đồng với con người. Chính vì thế mà các giác quan của nhà thơ rung động  ... a thiết như tiếng gọi của quê hương, nghìn năm sau sẽ còn vọng mãi. (Hoài Thanh) 
ĐỀ TỔNG HỢP NÂNG CAO 
Nhận định về phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, SGK Văn học 12, Tập một, NXB Giáo dục, H., 2002 viết: “ thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị”. Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên. 
I. TÌM HIỂU ĐỀ 
- Đề thuộc kiểu bài bình luận một vấn đề văn học (về đặc trưng phong cách một nhà thơ). 
- Bài làm không chỉ bàn luận về sự kết hợp giữa chất “trữ tình” và “chính trị” trong thơ Tố Hữu mà còn phải đặt thơ Tố Hữu vào trong tương quan với các nhà thơ khác thuộc khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Từ đó làm sáng tỏ thơ Tố Hữu là “tiêu biểu” cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. 
- Về phạm vi kiến thức: học sinh có thể vận dụng các kiến thức về thơ Tố Hữu và thơ văn cách mạng trong và ngoài nhà trường để làm sáng tỏ yêu cầu của đề. 
II. DÀN BÀI SƠ LƯỢC 
1. Mở bài: 
- Thế kỉ XX đối với dân tộc Việt Nam là một thế kỉ Cách mạng. Cách mạng không chỉ đổi thay số phận dân tộc mà còn đem đến cho thơ ca, văn học một nguồn mạch mới. Một khuynh hướng chủ đạo của văn học thế kỉ này là khuynh hướng thơ trữ tình chính trị mà Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu. 
- Đúng như SGK Văn học 12 nhận định “Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị”. 
2. Thân bài: 
Bài làm cần đảm bảo nội dung sau: 
- Mối quan hệ biện chứng giữa “thơ trữ tình” và “chính trị” trong thời đại cách mạng; 
- Các kiểu thơ trữ tình chính trị và nét độc đáo trong thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu. 
- Những biểu hiện của thơ trữ tình chính trị ở thơ Tố Hữu và những đóng góp mới mẻ của nó trong đời sống sáng tác văn học đương thời. Trên cơ sở đó đánh giá và chỉ ra ý nghĩa văn học sử của phong cách thơ Tố Hữu. 
3. Kết bài: 
- Từ hiện tượng thơ trữ tình của Tố Hữu rút ra một vấn đề có tính lí luận: mối quan hệ giữa văn học và thực tiễn đời sống chính trị; giữa nhà văn và nhà chính trị. 
- Khẳng định ý nghĩa và đóng góp quan trọng của thơ Tố Hữu trong dòng văn học cách mạng của dân tộc. 
III. TƯ LIỆU THAM KHẢO 
“Một hiện tượng thơ khi đã phát triển trọn vẹn, viên mãn cần được xác định và gọi tên. Xác định đúng, gọi tên đúng mới đánh giá đúng. Thơ Tố Hữu thường được gọi bằng các tên khác như thơ tranh đấu, thơ thời cuộc, thơ thời sự, thơ cảm hứng xã hội, thơ chính trị, thơ đặt hàng Gọi là thơ đặt hàng rõ ràng là không hay vì nó gọi lên một quan hệ hàng hóa, gọi là thơ tranh đấu, thơ thời cuộc tuy chỉ ra tác dụng xã hội nhưng còn chung chung. Gọi là thơ thời sự và thơ cảm hứng xã hội đều chưa xác đáng bởi vì cốt lõi trong thơ Tố Hữu không phải là các sự kiện thời sự hay các vấn đề xã hội khác nhau mà là tình cảm chính trị, ý thức chính trị thường trực. 
Thơ Tố Hữu là thơ thể hiện các tư tưởng, tình cảm chính trị của thời đại, là thơ phát hiện ý nghĩa chính trị của các hiện tượng đời sống. Mồ côi rõ ràng là một hiện tượng xã hội có thể nói thời nào cũng có, nhưng với con mắt chính trị, Tố Hữu nhìn ra một điều: xã hội hiện tại lúc ấy không quan tâm đến vấn đề đó - Thờ ơ con mắt lạnh. Nhìn chúng: “Có hề chi”. Mô típ lạnh lùng còn được nhà thơ sử dụng nhiều lần nữa để thể hiện tư tưởng cắt đứt ảo tưởng đối với xã hội cũ, do đó khác hẳn xu hướng cảm thương uỷ mị. Qua bức tranh Hai đứa bé, ông chỉ ra xung đột của hai thế giới, qua số phận người vú em, ông nhận ra vấn đề “chế độ”. 
Điều hết sức thú vị là trong tập thơ Từ ấy, Tố Hữu đề cập hết các hiện tượng xã hội được thể hiện trong Thơ mới lãng mạn và văn học hiện thực phê phán đương thời, và qua mỗi hiện tượng ông đều phát hiện ra ý nghĩa chính trị của chúng. Ông nhìn ra giải pháp cho mọi vấn đề bằng con đường đấu tranh chính trị. 
Đối với Tố Hữu, các hiện tượng “mồ côi”, “lạc loài”, “lầm than”, “lạnh lùng”, “khổ tủi”, “thảm sầu”, “hắt hủi”, “dâm ô”, “cô đơn”, “điêu tàn”, “đẹp và thơ” đều có nội dung xã hội cụ thể, chứ không phải là các hiện tượng chung chung, nghiệp dĩ của kiếp người. Tiếng đàn em bé hát rong, theo ông, phải là một hành vi chống lại chế độ cũ. Hai cái chết của hai đứa cháu người hành khất phải là cơ sở để nuôi căm hờn. Nhà thơ hướng mọi vấn đề xã hội vào một hướng duy nhất: Cách mạng. 
Đối diện với văn thơ lãng mạn tiêu cực về mặt chính trị - đúng như Hoài Thanh nhận định, Tố Hữu đã “chọi lại”, “chọi lại trên vấn đề cơ bản là thái độ sống và nhận thức chính trị”. Chọi lại như thế nào? Tố Hữu đã đưa lại cho các hiện tượng xã hội ấy một nội dung cụ thể, kéo chúng từ sự nhận thức trừu tượng trở về với mảnh đất hiện thực. Các bài Dửng dưng, Tháp đổ, Điêu tàn, Nhớ người, thể hiện rất rõ cho khuynh hướng đó. Ngay bài Lao Bảo mà rất nhiều khi bị xem là bằng chứng của việc nhà thơ “chưa thoát khỏi” ảnh hưởng tiêu cực của thơ mới, ta cũng thấy nhà thơ “chọi lại” bằng cách chỉ ra một hiện tượng điêu tàn, nhưng là do đế quốc Pháp gây nên. Đây cũng có “xương tàn”,”nắm mồ bao khối não”, có “huyết ứ dưới lời than”, nhưng là do “Roi đế quốc, báng súng trường quất xé. Thịt hi sinh của những kiếp đi đày”. Và đó là cơ sở để căm hờn, nung nấu ý chí chiến đấu. Trường hợp này cũng như nhiều trường hợp khác của Từ ấy, không thể căn cứ vào sự giống nhau của hình ảnh mà kết luận là nhà thơ đã chịu ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực của Thơ mới. Cái quyết định trong quan hệ ảnh hưởng không chỉ ở tính chất tích cực hay tiêu cực của hiện tượng văn học có trước, mà ở lập trường, bản lĩnh của chủ thể tiếp nhận. Tố Hữu đã cắt nghĩa lại, giải thích lại, đổi mới hẳn nội dung của các hiện tượng đó. Tiếp nhận ở đây có nghĩa là cải tạo và đổi mới. 
Thơ Tố Hữu cũng có xuân ý, trời hồng, phảng phất của thơ Xuân Diệu. Nhưng Xuân Diệu, mùa xuân gắn với tuổi trẻ hưởng thụ của người cá nhân, còn ở Tố Hữu là “xuân nhân loại”, xuân của thời đại mới - một mùa xuân mang đầy nội dung cách mạng. Vậy thì ở đây, nên nói cái nào ảnh hưởng cái nào? Cái quyết định vẫn là tư tưởng và bản lĩnh người tiếp nhận. Ở đây thể hiện rõ bản sắc vững vàng của một nhà thơ chính trị. 
Thường có ý kiến cho rằng thơ Tố Hữu có ít những hiện tượng đời thường, ít các chi tiết thường nhật, thơ ông thiên về tổng hợp và về “cái lịch sử”, thơ ông ít viết về tình yêu. Đó là những nhận xét có cơ sở. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ ở phương diện ít hay nhiều, mà chủ yếu ở tính chất của khái quát. Thực ra nhiều bài thơ của Tố Hữu không ít các chi tiết đời thường, hình ảnh của thực tại. Ta có thể căn cứ vào chi tiết mà nhận ra là bài thơ viết thời nào. Điều chủ yếu là nhà thơ tập trung khai thác khía cạnh nội dung chính trị của đời thường. Do đó, cái tiêu biểu của thơ Tố Hữu chủ yếu không nằm ở phía tái hiện đời thường, mà ở phía khái quát chính trị sâu sắc, thấm thía, đậm đà. Chẳng hạn như bài Người con gái Việt Nam hầu như chẳng có chi tiết sinh hoạt đời thường nào, mà rất “Tố Hữu”, và rất hay. Ngay tập thơ Việt Bắc giàu hiện tượng đời thường hơn cả nội dung của nó vẫn là ý thức chính trị của con người kháng chiến, khác hẳn chi tiết đời thường kiểu Na-dim Hi-cơ-mét. 
Không phải đợi đến bài Quê mẹ nhà thơ mới đưa các chi tiết đời tư vào đây. Ta đã biết Tố Hữu đưa đời tư vào ngay bài thơ đầu tiên của tập Từ ấy: bài Mồ côi. Nhà thơ mất mẹ từ khi ông hãy còn bé. Ông nhắc đến mẹ với những lời thơ rất mực thiết tha, nhưng thường bao giờ cũng gắn liền với lòng biết ơn Đảng: “Mẹ không còn nữa, con còn Đảng. Dìu dắt khi con chưa biết gì”, hay “mẹ ơi, mẹ sinh con ra trong cực khổ. Mẹ chưa hay từ đó có Liên xô. Có Lê-nin hằng che chở con thơ”. Nhắc đến con mình, nhà thơ liền nghĩ: “Còn bao nhiêu chưa được ngủ trong nôi. Miền Bắc thiên đường của các con tôi”. Cả tình yêu đôi lứa cũng thấm nhuần nội dung chính trị: “Mà nói vậy: Trái tim anh đó. Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ. Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều . Phần cho thơ và phần để em yêu”. Hoặc “Khi âu yếm cùng anh, em hỏi. Tên nào trong muôn ngàn tên gọi. Như mối tình chung thủy không tan?- Trong lòng anh, tên ấy: Miền Nam!”. 
Nhiệt tình chính trị của nhà thơ luôn luôn thường trực trong mọi trường hợp, xâm chiếm vào mọi lĩnh vực đời sống. Và như vậy dẫu cái đời thường có đi vào thơ Tố Hữu nhiều hơn nữa, chất sinh hoạt vẫn không thể tăng lên. Đó cũng là một hiện tượng có quy luật của văn học vô sản trong những thời kì đầu, chẳng hạn như Người mẹ của M. Go-rơ-ki hay Thép đã tôi thế đấy của N. Ot-xtơ-rốp-xki. Nói về phong cách M. Go-rơ-ki trong Người mẹ, nhà phê bình văn học Xô viết A. Chi-che-rin cho rằng đó là một chủ nghĩa hiện thực không thể hiện ở “miêu tả các chi tiết sinh hoạt và tâm lý mà ở trong sự tái hiện một cách cụ thể và mạnh mẽ phi thường, nhưng lại khái quát chặt chẽ, tươi tắn, trang trọng về những người công nhân và nông dân Nga trước cách mạng 1905”. 
Nói về Thép đã tôi thế đấy, có nhà phê bình Xô Viết gọi đó là “một cuộc sống không có đời thường”. 
Cách tiếp cận ấy rất gần với Tố Hữu. Chính nhà thơ đã nhiều lần liên hệ ngày sinh của mình với ngày sinh của Liên Xô (cũ), của Đảng và của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Có thể nói Tố Hữu là nhà thơ chính trị từ trong máu thịt, cốt tủy. 
Là một nhà thơ, ông chỉ biết có cuộc sống duy nhất - cuộc sống chính trị. Có thể nói “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ. Mặt trời chân lý chói qua tim” mới thực là ngày khai sinh và điểm khởi đầu của đời ông. Các giai đoạn cách mạng, những ngày lễ lớn, những sự kiện trọng đại của đất nước mới thật sự là những cái mốc trong cuộc đời tình cảm của ông. Ông không chỉ ở tù có mấy năm rồi sau vượt ngục. Ông dường như đã ở tù suốt trăm năm, nghìn năm. Ông không sống cuộc đời có tình yêu đôi lứa,không có dằn vặt đời thường, ông sống trọn vẹn cuộc đấu tranh suốt trăm năm cho tự do, độc lập của nhân dân ta. Trái tim ông đập nơi cảnh đói nghèo, bơ vơ do xã hội cũ tạo nên, nó rớm máu dưới giày đinh của thực dân đế quốc. Ông nghẹt thở nơi đất nước bị chia cắt làm đôi, ông đau đớn với cỏ cây, rừng núi Việt Nam thấm đầy chất độc màu da cam của Mỹ. Ông bay múa trong ngày Tổ quốc giải phóng, ông trẻ lại cùng đất nước hồi sinh. Bao giờ Tố Hữu cũng giữ cho tình cảm mình rung động mãnh liệt với ý nghĩa chính trị của các hiện tượng đời sống. Ngay thưởng thức phong cảnh thiên nhiên, nhà thơ cũng suy nghĩ tới chính trị. 
Hoài Thanh có lần nhắc lại: “Tố Hữu có lần nói, nghe chim kêu, thấy nắng đẹp mà không nghĩ do đâu mà có thì đánh giá mọi thứ đều sai”. Khi đứng trước một người ân nhân cách mạng sắp mất, nhà thơ cũng không hề để lộ niềm thương xót riêng tư, mà triền miên trong lẽ sống cách mạng lớn lao: 
“Anh nghe thu rứt lá gọi đời đi Tôi thấy cả một mùa xuân bước lại” (Những người không chết) 
Như vậy thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu dựa trên tiền đề thống nhất hoàn toàn, lắm khi là đồng nhất chủ thể trữ tình cá nhân và chủ thể của hoạt động chính trị là giai cấp, Đảng, Nhân dân, Tổ quốc. Sự thống nhất cao độ ấy tự nó đã thủ tiêu lí do phân biệt tuyên truyền và trữ tình, làm gần lại phút bùng cháy của tâm hồn trữ tình với thời điểm bùng nổ của sự kiện chính trị. Tố Hữu đã kết hợp một tình cảm yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội thuần tuý nhất với một tình cảm cá nhân đằm thắm trong sáng nhất. Nhờ thế, ông đã sáng tạo được một thế giới nghệ thuật độc đáo của thơ trữ tình chính trị và nâng nó lên một trình độ mới. (Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Văn hóa Thông tin, 2001) 

Tài liệu đính kèm:

  • docOn thi TN12 Chuyen de To Huu Tron bo.doc