Chuyên đề Đổi mới của văn học Việt Nam từ sau 1975

Chuyên đề Đổi mới của văn học Việt Nam từ sau 1975

Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, đồng thời cũng đưa tới một chặng đường mới của nền văn học VN. Hơn 30 năm kể từ thời điểm lịch sử đó, nền văn học VN luôn đồng hành và gắn bó với vận mệnh của dân tộc, đi qua những thăng trầm và thực sự đã tạo ra những biến

đổi sâu sắc, toàn diện, làm nên diện mạo của một giai đoạn văn học mới.

Mặc dù không có được vị thế nổi trội trong thời kỳ đổi mới như các thể loại văn xuôi, nhưng thơ sau 1975 vẫn là một giai đoạn mới có sự đa dạng về diện mạo và nhiều tìm tòi, nỗ lực cách tân đáng chú ý trong tiến trình thơ hiện đại VN.

 

doc 4 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 7015Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Đổi mới của văn học Việt Nam từ sau 1975", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thu hoạch chuyên đề : “ Đổi mới của Văn học Việt Nam từ sau 1975”
 	Chương V:
 Nhìn chung về diện mạo và sự đổi mới của thơ sau 1975
Đặt vấn đề :
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, đồng thời cũng đưa tới một chặng đường mới của nền văn học VN. Hơn 30 năm kể từ thời điểm lịch sử đó, nền văn học VN luôn đồng hành và gắn bó với vận mệnh của dân tộc, đi qua những thăng trầm và thực sự đã tạo ra những biến 
đổi sâu sắc, toàn diện, làm nên diện mạo của một giai đoạn văn học mới.
Mặc dù không có được vị thế nổi trội trong thời kỳ đổi mới như các thể loại văn xuôi, nhưng thơ sau 1975 vẫn là một giai đoạn mới có sự đa dạng về diện mạo và nhiều tìm tòi, nỗ lực cách tân đáng chú ý trong tiến trình thơ hiện đại VN.
Những nét chung về diện mạo và sự đổi mới của thơ sau 1975
1.Tiến trình thơ từ sau 1975:
Nằm trong dòng chảy của thơ VN, chặng đường thơ từ sau 1975 cũng có một c/s, sinh mệnh với tiến trình phát triển của nó.
 Sau đại thắng mùa xuân 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng lớn của thơ, nhất là nửa cuối thập kỷ 70 và đầu những năm 80. Đó là niềm hân hoan “toàn thắng ắt về ta”, niềm xúc động sum họp Bắc – Nam, của những người con miền Nam được trở về quê hương sau bao nhiêu năm xa cách, nhớ thương Đó còn là sự chiêm nghiệm về lịch sử qua những trải nghiệm của chính mình và của thế hệ. Tất cả đã làm nở rộ thể loại trường ca mà nền tảng là cảm hứng sử thi. Giọng điệu trầm lắng, hướng vào suy tư chứ không con cất lên ở âm vực cao đày hào sảng hoặc bay bổng lãng mạn. Sự khẳng định dân tộc, ngợi ca sức mạnh của nhân dân thường được thể hiện qua những mất mát, hy sinh , nõi đau thàm lặng của vô vàn con người, bao nhiêu số phận.
Trở về với c/s thời bình, con người có điều kiện trở về với đ/s thế sự và rieng tư. Y thức về thời gian đời người, khát vọng hp đời thường trở thành cảm hứng thường trực và da diết trong thơ Xuân Quỳnh, LâmThị Mỹ Dạ, ý Nhi.
Bước vào những năm 80, đ/n rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xh ngày cáng nặng nề, thực trạng xh bộ lộ nhiều mặt trái. Thơ đã không né tránh những sự thật đau lòng để viết về những bất công ngang trái, những trì trệ ngủ yên trong lối mòn tự mãn. Cảm xúc thơ đậm nỗi buồn, niềm xót xa hay sự hoài nghi.Một số nhà thơ tỏ ra chới với, nhưng cũng không ít nhà thơđã tìm được những hướng đi mới , giọng địêu mới
Công cuộc đổi mới toàn diện đ/n đã thúc đẩy tinh thần dân chủ phát triển mạnh mẽ ý thức cá nhân trongvăn học.
Thơ ở thời kỳ này thể hiện khát vọng đào sâu vào bản ngã, vào con người bên trong con người, đặc biệt là thế giới tâm linh, những vùng mờ của tiềm thức; vô thức.Quan niệm thơ cũng có những cách tân ngày một mạnh mẽ.
2. Một số xu hướng trong thơ 1975:
2.1. Tiếp tục mạch cảm hứng sử thi, nhưng thiên về bi tráng và gắn với những trải nghiệm, kinh nghiệm cá nhân
Hầu hết các trường ca viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ xuất hiện ngay sau khi kết thúc chiến tranh, trong khoảng từ 1976 đến 1980, về cơ bản vẫn tiếp tục cách tiếp cận từ quan điểm sử thi với hiện thực chiến tranh, nhưng mang những nét mới so với các tác phẩm cùng loại xuất hiện trước 75 và sau đó phai nhạt dần, không còn môi trường tinh thần thuận lợi để nuôi dưỡng cảm hứng sử thi trong thơ mặc dù nó vẫn không hề xa rời những vấn đề của đát nước.
2.2 Hướng vào đời sốg thế sự và trở về với cái tôi cá nhân.
Đây là xu hướng bao trùm và chiếm số lượng lớn hơn cả trong thơ từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước đến nay. Hướng vào đ/s thế sự và chiêm nghiệm về nhân sinh, phần lớn các nhà thơ đều đã mất đi cảm giác bình yên mà thay vào đó là nỗi lo âu, nỗi buồn nhân thế. Nỗi bật trong số các nhà thơ hướng vào cảm hứng thế sự phải kể đến nữ thi sĩ Xuân Quỳnh.
Xuân Quỳnh ngay từ khi đến với thơ đã bộc lộ rõ cá tính tâm hồn mình: vừa sôi nổi, bồng bột, vừa tha thiết, chân thành, Thơ Xuân Quỳnh, nhất là từ sau 1975, là tự bạch của một tam hồn luôn khát khao hạnh phúc đời thường. Xuân Quỳnh cứ phơi trải những đam mê, những lo âu, niềm vui và nõi buồn trong c/s thường nhật của một người phụ nữ lên những trang thơ. Khát khao Ty, hạnh phúc, lại cũng hiẻu rằng những điều đó phải đâu là vĩnh viễn “ hôm nay yêu, mai đã xa rồi”. Nhưng chính vì thế mà niềm khát khao ấy lại càng da diết và thành thực, xen lẫn sự lo âu về những thay đổi biến suy của đời người và lòng người: 
	“ Lời yêu mỏng mảnh như lời khói
	 Ai biết tình anh có đổi thay?”
 (Hoa cỏ may)
đó còn là những lo âu trước những hy sinh, dâng hiến cho người đàn ông của mình :
	“ Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng
	 Trái tim em anh đã từng biết đấy
	 Anh là người coi thường của cải
	 Nên nếu cần, anh bán nó đi ngay”
 (Tự hát)
Người phụ nữ yêu hết mình. Trái tim phụ nữ ấy muốn được thành thực là mình :
	“ Em trở về đúng nghĩa trái tim em
	 Là máu thịt đời thường ai chẳng có
	 Vẫn ngừng đập lúc c/đ không còn nữa
	 Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
 ( Tự hát)
Đối với các nhà thơ khác, chặng đường thơ sau 1975 là hành trình tìm lại chính mình, nhà thơ hiện ra như “người đi tìm mặt” ( Hoàng Hưng); là sự trở lại với câu hỏi day dứt “ Ta là ai?” ( Chế Lan Viên).
2.3. Đi sâu khai thác con người bản thể ở phần tâm linh, vô thức.
Xuất phát từ quan niệm thơ là h/a và tiếng nói của tâm linh, vô thức, xu hướng này muốn khước từ, loại bỏ sự ám ảnh và áp lực của lý trý, của tư duy logic trong thơ. Kiểu “ thơ vụt hiện “ và lối viết tự động được đề xuất với những chủ trương một quan niệm mới về ngôn từ, muốn giải phóng “ chữ” ra khỏi nghĩa thông thường, thậm chí không mấy quan tâm đến nghĩa. Mặc dù không thể nói mọi thể nghiệm của xu hướng này đều chấp nhận được, nhưng cũng thấy rằng với xu hướng này , thơ đã có những cách tân có ý nghĩa, đáng kể là một số thi phẩm của Hoàng Cầm như “Lá diêu bông”, “Mưa thuận thành”, “ Cây tam cúc”
2.4. Xu hướng thiên về cách tân hình thức thơ theo hướng hiện đại chủ nghĩa
Các nhà thơ theo xu hướng này đã dửâ một quan niệm mới về nhữ và nghĩa của thơ.
Họ muốn “Chữ” thoát khỏi chức năng ký hiệu thay thế cho cái được biểu đạt, đọc thơ không phải là đi tìm nghĩa sau các Chữ và làm thơ chính là làm 
 “Chữ”. Điều đáng ghi nhận là các nhà thơ theo xu hướng này rất chú trọng khai thác và làm giàu các giá trị của mỗi chữ trong TV, làm mới những chữ qúa quen thuộc bằng cách tạo ra những kết hợp chữ khác với cách thông thường của một thứ trật tự ngữ pháp cứng nhắc :
	“ Chia xa rồi anh mới thấy em
	 Như một thời thơ thiếu nhỏ
	 Em về trắng đầy Cong Khung nhớ
	 Mưa mấy mùa
	 Mây mấy độ thu
	 Vườn thức một mùi hoa đi vắng
	 Em vẫn đây mà em ở đâu
	 Chiều Âu lâu 
bóng chữ động chân cầu”
 ( Bóng chữ - Lê Đạt)
3. Nhìn chung về những đổi mới của thơ sau1975:
3.1.Tính chất phi sử thi hoấ, hướng vào đ/s thế sự và cá nhân đã làm xuất hiện nhiều dạng thức mới cuả cái tôi trữ tình trong thơ sau năm 1975
- Hai dạng thức chính của cái tôi trữ tình: Cái tôi sử thi đại diện cho cả cộng đồng và cái tôi thế hệ trẻ
- Bước vào những năm 80, cái tôi sử thi mờ dần, thay vào đó là cái tôi thế sự với những cảm xúc khác, những nỗi buồn, sự lo âu, tâm trạng xót xa, day dứt trước hiện trạng xã hội, nhân thế.
- Với xu hướng tập trung vaò đ/s riêng tư, đào xới đến tậnn cùng bản thể của con người, cái tôi các nhân được khai thác ở mọi bình diện, tầng bậc, trong mọi mqh.
3.2. Nhìn chung, thơ hôm nay muốn vượt ra khỏi truyền thống “ duy cảm” của thơ phương đông và thơ VN, với 2 xu hướng: hoặc đưa thơ về gần với văn xuôi, với triết học, hoặc đưa thơ sang địa hạt của tâm linh, vô thức.
- Nhiều nhà thơ ý thức đưa chất văn xuôi vào trong thơ, đề cao sự tỉnh táo, lý tính.
- Nhiều hà thơ lại đưa thơ vè phía trí tuệ, gia tăng chất suy tưởng, triết lý. Nhưng cái khác là chát suy tưởng, triết lý không hướng vào những vấn đề của đ/s tư tưởng – chính trị mà hướng vào những vấn đề triết học nhân sinh, vềbản thể, về thơ.
- Một đặc điểm củ h/a thơ thời kỳ này là xu hướng biểu tượng hoá. Các loại biểu tượng cũng hết sức đa dạng, từ những h/a sẵn có trong thiên nhiên, những “mãu gốc” trong tam thức văn hoá dân tộc, các bộ phận của con người
 đến các h/a kỳ ảo là sản phẩm cỉa trí tưởng tượng hoặc đột hiện từ tâm linh, vô thức.
3.3. Về hình thức, tự do hoá là xu hướng bao trùm
- Tự do được thể hiện trên nhiều cấp độ: từ thể thơ, kết cấu bài thơ, dòng thơ đến ngôn ngữ và cách trình bày văn bản bài thơ
+ Thơ văn xuôi với cách viết không phân dòng được sử dụng rộng rãi.
+ Tổ chức kết cấu câu thơ cũg hết sức đa dạng và ở nhiều trường hợp đã vượt ra khổi cách kết cấu, lập tứ quen thuộc.
+ Tổ chức câu thơ cũng được thể hiện theo xu hướng tự do hoá.
+ Tự do trong sử dụng ngôn từ. Trường từ ngữ trong thơ đã được mở rộng đến gần như không có giới hạn nào.Những từ ngữ thông tục, khẩu ngữ, biệt ngữ đã có mặt khá nhiều trong thơ, nhất là thơ của lớp trẻ.
Tóm lại: Thơ ca giai đoạn nào cũng phản ánh những vấn đề 

Tài liệu đính kèm:

  • docchuyen de VH 4575.doc