Những ai quan tâm đến môn Ngữ văn trong trường THPT hẳn đều nhất trí rằng : dạy phân môn Làm văn là một trong những vấn đề làm nhức nhối nhiều người hơn tất cả : vừa khó lại vừa khô, không tạo ra hứng thú thật sự cho học sinh, hạn chế sự tìm tòi, tự nguyện của học sinh đến với phân môn Làm văn.
Xét về bản thân phân môn Làm văn là môn học vốn kết tinh đầy đủ nguyên lí kết hợp Học với Hành, là môn học bộc lộ rõ nét hơn cả nhân cách của học sinh, là môn học xứng đáng được coi là có truyền thống lâu đời nhất trong lịch sử giáo dục nước nhà, lẽ ra phải tích luỹ được nhiều kinh nghiệm nhất, tạo được nhiều hứng thú cho học sinh nhất thì kết quả ngược lại.
Trong thực tế dạy phân môn Làm văn : người dạy hướng học sinh sử dụng thành thạo kiểu làm văn trong nhà trường phổ thông đó là làm văn Nghị luận (Nghị luận xã hội và Nghị luận văn học). Nhưng đó là một thách thức không nhỏ, xuất phát từ thực tiễn giảng dạy, người dạy lại đặt ra rất nhiều câu hỏi mà không dễ trả lời :
Phần thứ nhất ĐẶT VẤN ĐỀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Những ai quan tâm đến môn Ngữ văn trong trường THPT hẳn đều nhất trí rằng : dạy phân môn Làm văn là một trong những vấn đề làm nhức nhối nhiều người hơn tất cả : vừa khó lại vừa khô, không tạo ra hứng thú thật sự cho học sinh, hạn chế sự tìm tòi, tự nguyện của học sinh đến với phân môn Làm văn. Xét về bản thân phân môn Làm văn là môn học vốn kết tinh đầy đủ nguyên lí kết hợp Học với Hành, là môn học bộc lộ rõ nét hơn cả nhân cách của học sinh, là môn học xứng đáng được coi là có truyền thống lâu đời nhất trong lịch sử giáo dục nước nhà, lẽ ra phải tích luỹ được nhiều kinh nghiệm nhất, tạo được nhiều hứng thú cho học sinh nhất thì kết quả ngược lại. Trong thực tế dạy phân môn Làm văn : người dạy hướng học sinh sử dụng thành thạo kiểu làm văn trong nhà trường phổ thông đó là làm văn Nghị luận (Nghị luận xã hội và Nghị luận văn học). Nhưng đó là một thách thức không nhỏ, xuất phát từ thực tiễn giảng dạy, người dạy lại đặt ra rất nhiều câu hỏi mà không dễ trả lời : Tại sao kết quả học làm văn nghị luận của học sinh cứ nghèo nàn và bấp bênh so với những môn học khác ? Tại sao trong thực tiễn làm bài Làm văn nghị luận học sinh không giải quyết được những khó khăn gặp phải ? Có thể kể ra rất nhiều nguyên nhân dẫn tới trình trạng ấy và để khắc phục phần nào trình trạng ấy, tôi đã rút ra được kinh nghiệm trong thực tiễn giảng dạy và mạnh dạn đề ra: Cách tiếp cận linh hoạt, sáng tạo để giảng dạy kiểu bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống có hiệu quả trong Ngữ văn 12. MỤC ĐÍCH, PHƯƠNG PHÁP, GIỚI HẠN ĐỀ TÀI Mục đích của đề tài là tạo ra cách tiếp cận linh hoạt, sáng tạo để người dạy kiểu bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống đạt hiệu quả cao, khắc phục việc truyền thụ kiến thức lí thuyết Làm văn khô cứng, tạo nên tâm lí nhàm chán đối với người học. Người dạy Làm văn cần hướng đến mục đích cuối cùng: Là giúp học sinh thể hiện (nói hoặc viết) những suy nghĩ (tư tưởng, quan điểm); tình cảm (vui hay buồn, căm ghét hay yêu thương); thái độ (đồng tình hay phản đối, ca ngợi hay phê phán) của mình trước một hiện tượng đời sống . . . . Có nghĩa là giúp cho học sinh cách nghĩ và cách trình bày suy nghĩ của mình trước một hiện tượng đời sống có ý nghĩa xã hội tích cực hay hiện tượng tiêu cực. Phương pháp thực hiện đề tài: mô tả, tái hiện lại đề tài, từ công việc tiếp cận của giáo viên, thiết kế bài dạy đến kết quả áp dụng đề tài tại đơn vị. Đề tài giới hạn trong phân môn Làm văn. Cụ thể, áp dụng cho kiểu bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống (Ngữ văn 12). Đối tượng áp dụng của đề tài là học sinh Trung học phổ thông, bổ túc Trung học phổ thông. Phần thứ hai NỘI DUNG THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ. Quá trình dạy học trên lớp tuỳ vào từng đối tượng cụ thể mà giáo viên triển khai linh hoạt các bước lên lớp và sáng tạo ra các tình huống dạy học, xây dựng phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng, để đạt hiệu quả cao nhất là học sinh nắm vững kiến thức và rèn luyện tốt kĩ năng thực hành. Để xây dựng phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng, linh hoạt và sáng tạo đạt hiệu quả cao cần xác định kĩ ba vấn đề. Vấn đề thứ nhất : Đối tượng học sinh của tôi đang nghiên cứu là bổ túc Trung học phổ thông, có những đặc điểm riêng như : Nhiều độ tuổi khác nhau, đối tượng học sinh phân luồng sau Trung học phổ thông. Nghỉ học lâu năm, lâu ngày, kiến thức không liên tục, chắp nối. Học sinh đa số học lực yếu, kém. Vấn đề thứ hai : Phân môn Làm văn có đặc thù riêng : là môn học vốn kết tinh đầy đủ nguyên lí kết hợp Học với Hành, nghĩa là vừa có tính lý thuyết vừa rèn luyện kĩ năng thực hành cao, đòi hỏi học sinh phải biết tích hợp kiến thức nhiều môn học khác nhau như Văn học, Tiếng việt, . . . . nhiều kênh thông tin khác nhau để vận dụng trong kĩ năng thực hành làm văn, viết (nói) bài làm văn nghị luận. Vì vậy, từ mức độ ấy đòi hỏi tâm lí tiếp nhận của người học rất quan trọng. Vấn đề thứ ba : Trong thực tiễn sống, con người thường thấy hiện ra trước mắt mình những câu hỏi, những băn khoăn mà mình vẫn muốn, vẫn chờ mong được giải đáp, nhưng lại khó giải đáp, và do đó mà thường khi vẫn được giải đáp theo nhiều cách khác nhau. Đó chính là vấn đề. Nghị luận về một hiện tượng đời sống nhằm trả lời câu hỏi ấy và rèn luyện cho học sinh ý thức quan tâm, có thái độ và nhận thức đúng đắn trước hiện tượng đời sống đang xảy ra. Đề tài nghị luận là các hiện tượng đời sống đáng được suy nghĩ, nghiền ngẫm trong cuộc sống thường ngày, đặc biệt là các hiện tượng liên quan trực tiếp đến thanh niên học sinh, các hiện tượng này thường có ý nghĩa xã hội tích cực và có hiện tượng tiêu cực. Căn cứ vào các vấn đề trên, giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ đối tượng học sinh, tạo tâm lí hứng thú cho học sinh tiếp nhận phân môn làm văn nói chung và kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống nói riêng một cách tự nguyện. Để làm được điều đó, đòi hỏi giáo viên linh hoạt, sáng tạo tình huống dạy học bằng: - Hình ảnh, tư liệu về những con người giàu nghị lực trong cuộc sống. Tấm gương những con người giàu lòng nhân ái. Hình ảnh, tư liệu về những hiện tượng đời sống mà xã hội đang quan tâm. Trong quá trình sáng tạo tình huống dạy học, giáo viên không quá lạm dụng, sa đà vào những hình ảnh hoặc những câu chuyện kể mà phải biết lựa chọn vài hình ảnh tiêu biểu, một hoặc hai câu chuyện điển hình, gây tác động trực tiếp đến tâm lí của học sinh, nhằm tạo sự hứng thú, rung động trong tâm lí tiếp nhận của học sinh. Đáp ứng những yêu cầu trên, tôi đã thực nghiệm trên lớp bằng các phương thức, cách thức tiếp cận làm sao cho việc giảng dạy làm văn nhẹ nhàng hơn, học sinh tiếp nhận hứng thú hơn, đạt hiệu quả cao nhất. Tôi xin mô tả đề tài : Cách tiếp cận linh hoạt, sáng tạo để giảng dạy kiểu bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống có hiệu quả. NỘI DUNG PHƯƠNG PHÁP. Công việc chuẩn bị của giáo viên. Để thực hiện phương pháp : Cách tiếp cận linh hoạt, sáng tạo để giảng dạy kiểu bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống có hiệu quả. Giáo viên cần chuẩn bị cách tiếp cận về chương trình dạy học làm văn theo nguyên tắc tích hợp đồng tâm và cách tiếp cận nghiên cứu, xử lí tài liệu: Cách tiếp cận chương trình dạy học Làm văn theo nguyên tắc tích hợp đồng tâm : Chương trình Làm văn từ Trung học cơ sở (THCS) đến Trung học phổ thông (THPT) có liên quan rất chặt chẽ với nhau, vì chúng xây dựng theo nguyên tắc tích hợp đồng tâm nâng cao. Các tri thức và kĩ năng các lớp dưới là cơ sở cho việc tiếp tục mở rộng, nâng cao ở các lớp trên. Chính vì thế, Giáo viên cần có cái nhìn khái quát nội dung văn nghị luận đã học từ các lớp THCS đến THPT. Văn nghị luận được học trong chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THCS (bắt đầu từ lớp 7 cho đến lớp 9). Lớp 7 : Nội dung chủ yếu là giúp học sinh tìm hiểu chung về văn nghị luận : Nhu cầu nghị luận và văn bản nghị luận; Thế nào là văn bản nghị luận; Đặc điểm của văn bản nghị luận; Bố cục và phương pháp lập luận trong bài nghị luận. Sau đó đi vào tìm hiểu và luyện tập hai thao tác chính là chứng minh và giải thích. Lớp 8 : Văn nghị luận tiếp tục được học với việc nhắc lại vấn đề luận điểm trong bài nghị luận, kĩ năng xây dựng và trình bày luận điểm. Sau đó học thêm một số vấn đề mới về văn nghị luận như : Tìm hiểu các yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự trong văn nghị luận. Lớp 9 : Văn nghị luận tiếp tục được học thêm các nội dung mới như : Các phép lập luận diễn dịch, quy nạp, phân tích, tổng hợp; Nghị luận xã hội và nghị luận văn học (chủ yếu là loại văn bình luận, đòi hỏi vận dụng tổng hợp các thao tác nghị luận). Văn nghị luận được học trong chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THPT (từ lớp 10 cho đến lớp 12). Lớp 10 : Ôn lại các kiểu văn bản đã học ở THCS và học thêm một số nội dung mới. Các kiểu văn bản ôn luyện bao gồm bốn kiểu văn bản: tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh. Các nội dung mới bao gồm hình thành và rèn luyện năng lực liên tưởng, tưởng tượng, khả năng quan sát, thể nghiệm đời sống; biết suy nghĩ, phát hiện vấn đề từ đời sống; biết đọc và tích luỹ kiến thức, . . . . Lớp 11 : Tập trung ôn lại và mở rộng, nâng cao các tri thức và kĩ năng về kiểu văn bản nghị luận xã hội và nghị luận văn học, mà trọng tâm là giới thiệu và luyện tập bốn thao tác lập luận chưa được học ở các lớp dưới: phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận. Lớp 12 : Tiếp tục hoàn thiện về văn nghị luận mà trọng tâm là các dạng bài nghị luận, luyện tập kết hợp các thao tác và hoàn chỉnh kĩ năng viết bài (bố cục, mở bài, kết luận, diễn đạt và hoàn chỉnh bài văn . . .). Tính tích hợp đồng tâm nâng cao theo chiều dọc của chương trình phân môn Làm văn trong sách giáo khoa Ngữ văn từ THCS đến THPT giúp cho giáo viên có cái nhìn toàn diện về chương trình Làm văn để nhận thấy: Kiến thức làm văn THPT chủ yếu viết dưới dạng tổng kết lại một số kiến thức và kĩ năng làm văn đã học ở các lớp dưới ở mức độ nâng cao. Vì thế, khi dạy giáo viên cần tận dụng và phát huy tối đa những hiểu biết của học sinh về vấn đề đã học để tìm hiểu bài. Ví dụ: Khi thiết kế bài dạy Nghị luận về một hiện tượng đời sống, GV cần lưu ý tính tích hợp như: Lớp 11 HS đã học kĩ năng Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận hoặc lớp 11 HS đã học và rèn luyện kĩ năng thực hành về các thao tác lập luận như: So sánh, Phân tích, Chứng minh, Bình luận, Bác bỏ . . . . Vì vậy trong quá trình dạy học GV yêu cầu HS ôn lại kiến thức để vận dụng vào kiểu bài làm văn nghị luận về một hiện tượng đời sống mà không cần dạy lại kiến thức đã học. Cách tiếp cận tài liệu và xử lí tài liệu từ các kênh thông tin khác nhau : Để học sinh hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu sâu đồng tình trước những hiện tượng đời sống có ý nghĩa xã hội, giáo viên cần chú ý những vấn đề sau đây: Thứ nhất: Đề bài nghị luận về một hiện tượng đời sống chủ yếu được ra theo hướng mở, có nghĩa là chỉ nêu đề tài và yêu cầu học sinh trình bày những suy nghĩ và ý kiến riêng chứ không dừng lại ở mức độ giải thích, chứng minh xuôi chiều một hiện tượng. Thứ hai: Đề tài nghị luận về một hiện tượng đời sống rất rộng, bao gồm những hiện tượng đời sống có ý nghĩa tích cực và hiện tượng tiêu cực. Vì thế, giáo viên cần chuẩn bị tài liệu về hiện tượng đời sống có ý nghĩa tích cực và hiện tượng tiêu cực, để làm mẫu thị phạm hoặc tư liệu dẫn chứng, tạo nên tính thuyết phục cao, hứng thú cho học sinh đồng thời để cung cấp tài liệu cho học sinh. Từ hai vấn đề ấy, đòi hỏi giáo viên phải có cách tiếp cận tài liệu từ các kênh thông tin khác nhau như : Sách, báo chí, internet, truyền hình, đài phát thanh, . . . và xử lí tài liệu ấy sao cho trung thực, sống động, gần gũi, mẫu mực để đưa vào bài dạy đạt hiệu quả cao. Sau khi giáo viên tiếp cận chương trình dạy học làm văn theo hướng tích hợp đồng tâm và tiếp cận nghiên cứu, xử lí tài liệu xong, tiến hành thiết kế bài dạy (giáo án). Thiết kế bài dạy. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG A Mục tiêu bài học 1. Về kiến thức. - Giúp học sinh hiểu được cách làm bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống. 2. Về kĩ năng - Nâng cao kĩ năng làm văn nghị luận xã hội. 3. Về tư tưởng, thái độ - Có nhận thức, tư tưởng, thái độ và hành động đúng đắn trước những hiện tượng đời sống hàng ngày. B. Nội dung, phương pháp, phương tiện Nội dung P ... đề bài để học sinh quan sát và tiến hành làm theo. + GV làm mẫu đề bài 1: Chiếu slide bài làm mẫu. Luận điểm - Việc làm của Nguyễn Hữu Ân: đã nêu một tấm gương về lòng hiếu thảo, vị tha, giàu đức hi sinh của thanh niên. - Hiện tượng Nguyễn Hữu Ân là một hiện tượng sống đẹp, thế hệ ngày nay cần có nhiều tấm gương như Nguyễn Hữu Ân. - Bên cạnh đó, còn một số người có lối sống ích kỉ, vô tâm, đáng phê phán, “lãng phí chiếc bánh thời gian vào những việc vô bổ”. - Bài học: Tuổi trẻ cần dành thời gian tu dưỡng, lập nghiệp, sống vị tha để cuộc đời ngày một đẹp hơn. Dẫn chứng - Một số việc làm có ý nghĩa của thanh niên ngày nay tương tự như Nguyễn Hữu Ân: dạy học ở các lớp tình thương, giúp đỡ người tàn tật có hoàn cảnh neo đơn, tham gia phong trào tình nguyện - Một số việc làm đáng phê phán của thanh niên học sinh: bỏ học ra ngoài chơi điện tử, đánh bi a, tham gia đua xe Thao tác lập luận - Phân tích, Chứng minh, Bình luận, Bác bỏ. Hoạt động 3: - GV gợi mở và nêu vấn đề : cách làm bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống, không chỉ có một thao tác lập luận mà phải biết kết hợp vận dụng nhiều thao tác lập luận với nhau. Vậy các em hãy nhắc lại ở lớp 11 đã học các thao tác lập luận nào ? GV gọi một vài HS trình bày khái niệm về các thao tác lập luận (mục đích làm cho HS nhớ lại kiến thức đã học và biết vận dụng làm bài nghị luận). Thao tác lập luận Nội dung Phân tích Phân tích là chia nhỏ đồi tượng thành các yếu tố bộ phận để xem xét nội dung, hình thức và mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của chúng, rồi khái quát, phát hiện ra bản chất của đối tượng. So sánh So sánh là đối chiếu hai sự vật, hiện tượng để thấy được sự giống và khác nhau giữa hai sự vật, hiện tượng đó. Bình luận Đánh giá, xác định vấn đề: đúng – sai; hay - dở và bàn bạc mở rộng vấn đề một cách sâu sắc, có sức thuyết phục cao. Bác bỏ Dùng lí lẽ, dẫn chứng đúng đắn, khoa học để chỉ rõ những sai lầm, lệch lạc, thiếu khoa học của một quan điểm, ý kiến nào đó. - GV tiến hành chia nhóm thảo luận (mỗi nhóm 4HS), thời gian 5 phút, tiến hành xây dựng luận điểm (ý chính), xác định dẫn chứng và các thao tác lập luận của đề bài 2, 3. Lần lượt cho mỗi nhóm trình bày, nhóm khác nhận xét bổ sung, GV định hướng và chốt lại nội dung. Trong quá trình HS thảo luận GV kiểm tra định hướng, chú ý những nhóm có HS yếu, kém. b) Lập dàn ý. Hoạt động 1 : - GV dẫn dắt và nêu vấn đề : Ở chương trình Làm văn 11 các em đã học về kĩ năng lập dàn ý bài văn nghị luận. Vậy các em hãy nhắc lại các bước lập dàn ý ? HS nhớ kiến thức cũ và trả lời: Lập dàn ý: Từ kết quả tìm hiểu đề, sắp xếp các ý thành hệ thống theo trình tự logic gồm 3 phần: Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận. Thân bài: Triển khai luận đề thành những luận điểm. Kết bài: Tóm tắt ý, mở rộng, đánh giá ý nghĩa của vấn đề, rút ra bài học. - GV gợi mở: Tại sao chúng ta phải lập dàn ý bài làm ? Tác dụng của lập dàn ý là gì ? HS trả lời. Lập dàn ý giúp ta định hướng đúng bài làm, không lạc đề, đi ra khỏi phạm vi giới hạn của đề và trách trường hợp lặp ý, thiếu ý. + GV tiến hành làm mẫu đề bài 1: Chiếu slide bài làm mẫu. Mở bài - Giới thiệu hiện tượng Nguyễn Hữu Ân - Trích dẫn đề văn, nêu vấn đề “chia chiếc bánh mì của mình cho ai?” Thân bài - Tóm tắt hiện tượng: Nguyễn Hữu Ân đã dành hết thời gian của mình cho những người bệnh ung thư giai đoạn cuối. - Phân tích hiện tượng: Hiện tượng Nguyễn Hữu Ân có ý nghĩa giáo dục rất lớn đối với thanh niên, học sinh ngày nay: + Hiện tượng này chứng tỏ thanh niên Việt Nam đã và đang phát huy truyền thống Lá lành đùm lá rách, tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau của cha ông xưa. + Hiện tượng Nguyễn Hữu Ân tiêu biểu cho lối sống đẹp, tình yêu thương con người của thanh niên ngày nay. + Một số tấm gương tương tự. - Bình luận: + Đánh giá chung về hiện tượng: Đa số thanh niên Việt Nam có ý thức tốt với việc làm của mình, có hành vi ứng xử đúng đắn, có tấm lòng nhân đạo, bao dung. Không chỉ vì một số ít thanh niên có thái độ và việc làm không hợp lí mà đánh giá sai toàn bộ thanh niên. + Phê phán: Một vài hiện tượng tiêu cực “lãng phí chiếc bánh thời gian” vào những việc vô bổ, không làm được gì cho bản thân, gia đình, bạn bè, những người cần được quan tâm, chia sẻ. + Kêu gọi: Thanh niên, học sinh ngày nay hãy noi gương Nguyễn Hữu Ân để thời gian của mình không trôi đi vô ích. Kết bài - Bày tỏ suy nghĩ riêng của người viết đối với hiện tượng. Hoạt động 2 : - GV cho HS đọc phần Ghi nhớ sách giáo khoa và tiến hành chia nhóm thảo luận (mỗi nhóm 4HS), thời gian 10 phút, tiến hành lập dàn ý đề bài 2, 3. GV kiểm tra, quan sát định hướng. Sau đó, cho các nhóm trình bày và nhận xét. GV chốt ý, ghi bảng. Nội dung 3 3. Luyện tập. Hoạt động 1 : - GV hướng dẫn HS về nhà làm bài tập 1 sách giáo khoa, trang 67, 68 theo định hướng. a. Nguyễn Ái Quốc bàn về hiện tượng: - Sự lãng phí thời gian của thanh niên An Nam. Hiện tượng ấy diễn ra vào những năm đầu thế kỉ XX. Với hoàn cảnh xã hội nước ta ngày nay, hiện tượng ấy vẫn còn. - Nêu và phê phán hiện tượng: thanh niên, học sinh Việt Nam du học lãng phí thời gian vào những việc vô bổ - Chỉ ra nguyên nhân: Họ chưa xác định được lí tưởng sống đúng đắn, ngại khó, ngại khổ, lười biếng hoặc chỉ sống vì tiền bạc, vì lợi ích nhỏ hẹp - Bàn bạc: Nêu một vài tấm gương thanh niên, sinh viên chăm học đạt địa vị cao, khi trở về thì phục vụ cho nước nhà (giảng dạy ở các trường đại học hoặc làm việc ở các ngành kinh tế, khoa học, kĩ thuật) b. Nguyễn Ái Quốc đã dùng các thao tác lập luận: - Phân tích: thanh niên du học, thanh niên trong nước, lối sống của họ nguy hại cho đất nước. - So sánh: nêu hiện tuợng thanh niên, sinh viên Trung Hoa du học chăm chỉ, cần cù. - Bác bỏ: “Thế thì thanh niên chúng ta đang làm gì? Nói ra thì buồn, buồn lắm: Họ không làm gì cả.” c. Nghệ thụât diễn đạt của văn bản: - Dùng từ ngữ giản dị, không hoa mĩ, nêu dẫn chứng xác thực, cụ thể; - Kết hợp nhuần nhuyễn các kiểu câu trần thuật, câu hỏi (“Thế thì gì?”), câu cảm thán (“Hỡi hồi sinh”!). d. Rút ra bài học: - Xác định lí tưởng, cách sống. - Mục đích, thái độ học tập đúng đắn. Hoạt động 2: - GV chiếu slide hình ảnh và nêu đề bài: - GV nêu đề bài: Ô nhiễm làm cho môi trường sống đang bị huỷ hoại. Vậy môi trường sống gồm những yếu tố nào ? - HS quan sát hình ảnh và trình bày suy nghĩ của mình. + Nguồn nước + Nguồn thức ăn + Bầu không khí + Rừng Sau khi HS trình bày những yếu tố của môi trường sống, GV yêu cầu HS về nhà lập dàn ý đề bài : Hãy trình bày suy nghĩ của mình về tác dụng của môi trường sống đối với con người. Hoạt động 3: GV củng cố kiến thức Ghi nhớ SGK và tiến hành chia nhóm 4 HS/ nhóm, yêu cầu về nhà tìm hiểu và viết một bài nghị luận về tấm gương Người tốt, việc tốt; tấm gương giàu lòng nhân ái (chăm sóc người già, neo đơn, người tàn tật, người bệnh nặng . . . .). Bài viết khoảng 400 từ. Tuần sau lớp chúng ta thực hành, mỗi nhóm trình bày bài viết của mình, các nhóm nhận xét, GV chấm điểm. 3. Thực hiện trên lớp Sau khi xây dựng hoàn thành thiết kế bài học, GV tiến hành thực hiện trên lớp. Tiến hành theo từng nội dung đã xây dựng trong thiết kế bài học. Lưu ý : Đây là bài học kết hợp Công nghệ Thông tin với trình bày bảng nên giáo viên cần kết hợp linh hoạt giữa viết bảng và trình chiếu. Phần thứ ba KẾT LUẬN Tính hiệu quả của đề tài. - Quá trình ứng dụng đề tài vào dạy học trong năm học 2009 – 2010 cho các lớp: 12A1; 12A2 đạt một số hiệu quả sau : Đáp ứng được phương pháp dạy học tích cực. Tạo được hứng thú, phản ứng nhanh nhạy cho học sinh hiểu rõ, hiểu sâu, hiểu đúng bản chất của từng hiện tượng đời sống. Tránh sự nhàm chán trong quá trình tiếp nhận tri thức của học sinh. Vì thiết kế bài học GV sử dụng hình ảnh, những câu chuyện người thật việc thật mang tính thời sự, gần gũi đang được xã hội quan tâm chia sẻ, đặc biệt là ở lứa tuổi thanh niên và học sinh. GV phát huy sức mạnh của phương pháp Thị phạm (làm mẫu) trên cơ sở ấy HS quan sát, sáng tạo để bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình. Giáo viên phát huy tích cực vai trò của mình như : quan sát lớp, nhóm làm việc, đi sâu vào hướng dẫn cho các học sinh yếu, cá biệt làm việc đạt hiệu quả. Kết hợp hài hoà giữa ghi bảng và ứng dụng Công nghệ Thông tin, không làm mất đi tính sư phạm mẫu mực của truyền thống. Từ những hiệu quả của đề tài mang lại, chúng tôi đạt một số kết quả trong năm học 2009 – 2010 như sau : Kết quả - Thống kê kết quả làm bài kiểm tra số 2 (Nghị luận về một hiện tượng đời sống) của các lớp : 12A1; 12A2. + 100% các em HS hiểu đúng, hiểu rõ, hiểu sâu hiện tượng đời sống của đề bài. + 95% HS thực hiện đúng kĩ năng cách làm bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống. + 5% HS kết hợp các thao tác lập luận lộn xộn, chưa mạch lạc, rõ ràng. - Thống kê kết quả làm bài thi học kì I, phần Nghị luận về một hiện tượng đời sống. + 100% HS hiểu đúng, hiểu rõ, hiểu sâu hiện tượng đời sống của đề bài. + 100% HS thực hiện đúng kĩ năng cách làm bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống. Với kết quả đạt được, chúng tôi tiếp tục thực hiện và hoàn chỉnh đề tài tốt nhất. Rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô. Chân thành cảm ơn ! TÀI LIỆU THAM KHẢO Ngữ văn 7, tập một, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007. Ngữ văn 7, tập hai, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007. Ngữ văn 8, tập một, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007. Ngữ văn 8, tập hai, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007. Ngữ văn 9, tập một, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007. Ngữ văn 9, tập hai, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007. Ngữ văn 10, tập một, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007. Ngữ văn 10, tập hai, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007. Ngữ văn 11, tập một, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007. Ngữ văn 11, tập hai, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007. Ngữ văn 12, tập một, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2008. Ngữ văn 12, tập hai, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2008. Sách giáo viên Ngữ văn 10, tập một, nxb Giáo dục, năm 2007. Sách giáo viên Ngữ văn 10, tập hai, nxb Giáo dục, năm 2008. Sách giáo viên Ngữ văn 11, tập một, nxb Giáo dục, năm 2008. Sách giáo viên Ngữ văn 11, tập hai, nxb Giáo dục, năm 2008. Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập một, nxb Giáo dục, năm 2008. Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập hai, nxb Giáo dục, năm 2008. Hướng dẫn thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 10, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2006. Hướng dẫn thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 11, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007. Hướng dẫn thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 12, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2008. MỤC LỤC STT NỘI DUNG TRANG 1 Phần thứ nhất ĐẶT VẤN ĐỀ 1 2 I/ Lí do chọn đề tài 1 3 II/ Mục đích, phương pháp, giới hạn đề tài 2 4 Phần thứ hai NỘI DUNG 2 5 I/ Thực trạng vấn đề 2 6 II/ Nội dung phương pháp 4 7 1. Công việc chuẩn bị của giáo viên 4 8 1.1 Cách tiếp cận chương trình dạy học Làm văn theo nguyên tắc tích hợp đồng tâm 4 9 1.2 Cách tiếp cận tài liệu và xử lí tài liệu từ các kênh thông tin khác nhau 6 10 2. Thiết kế bài dạy 7 11 3. Thực hiện trên lớp 21 12 Phần thứ ba KẾT LUẬN 21 13 1. Tính hiệu quả của đề tài 21 14 2. Kết quả 22 15 Tài liệu tham khảo 23 NỘI DUNG XÉT DUYỆT CỦA ĐƠN VỊ
Tài liệu đính kèm: