Tuyên ngôn độc lập
(Hồ Chí Minh)
1. Hoàn cảnh sáng tác:
- Ta đã giành được chính quyền từ tay Nhật -> yêu cầu lịch sử: tuyên bố, khẳng định nền độc lập dân tộc với nhân dân thế giới.
- Địch đưa ra luận điệu khai hoá, bảo hộ -> yêu cầu LS: phải có hệ thống lý lẽ để bác bỏ, bóc trần luận điệu xảo trá ấy của Pháp trước nhân dân tiến bộ TG.
MỘT SỐ BÀI ÔN TẬP VĂN 12 Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh) 1. Hoàn cảnh sáng tác: - Ta đã giành được chính quyền từ tay Nhật -> yêu cầu lịch sử: tuyên bố, khẳng định nền độc lập dân tộc với nhân dân thế giới. - Địch đưa ra luận điệu khai hoá, bảo hộ -> yêu cầu LS: phải có hệ thống lý lẽ để bác bỏ, bóc trần luận điệu xảo trá ấy của Pháp trước nhân dân tiến bộ TG. -> Lịch sử cần một tiếng nói vào thời điểm quan trọng ấy. Đó là lý do ra đời của TNĐL. Cuối thỏng 8/1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, lónh tụ Hồ Chớ Minh soạn thảo bản Tuyờn ngụn Độc lập. Và ngày 2/9/1945; tại quảng trường Ba Đỡnh, Hà Nội, Người thay mặt Chớnh phủ Lõm thời nước Việt Nam Dõn chủ Cộng hoà, đọc bản Tuyờn ngụn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dõn chủ Cộng hũa, mở ra một kỷ nguyờn mới Độc lập, Tự do. 2. Đối tượng và mục đích sáng tác: * Đối tượng: - Đồng bào cả nước và nhân dân thế giới. - Thực dân Pháp và các nước đồng minh với Pháp. * Mục đích: - Khẳng định và tuyên bố độc lập - Bác bỏ lý lẽ điêu toa, cướp nước của thực dân Pháp. -> Hai mục đích này có quan hệ chặt chẽ: Muốn tuyên bố độc lập phải bác bỏ được luận điệu của Pháp và ngược lại. 3. Nội dung và cách lập luận: * Cơ sở pháp lý của nền độc lập của dân tộc Việt Nam: - Trích dẫn tuyên ngôn: Đều là những chân lí kđ những quyền cơ bản của con người nói chung. - Mục đích, ý nghĩa của việc trích dẫn: Khẳng định hùng hồn: nhân dân Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, quyền bình đẳng và quyền hạnh phúc như tất cả các dân tộc khác trên thế giới. Từ quyền con người, Bác nâng lên kđ quyền tự do độc lập của các dân tộc, trong đó có dân tộc Việt Nam. Tiểu kết: - Cách lập luận vừa khéo léo vừa kiên quyết, tạo sức thuyết phục cao: Khéo léo: Đồng tình, trân trọng tuyên ngôn của dân tộc Pháp và Mỹ (kẻ thù) Kiên quyết: Lấy chính lý lẽ của họ để thuyết phục (khóa miệng) họ - lấy gậy ông đập lưng ông. - Thể hiện rõ niềm tự hào dân tộc. * Cơ sở thực tiễn nền độc lập của Việt Nam dưới sự bảo hộ, khai hoá của Pháp: + Về phía thực dân Pháp: - Về chính trị: - Về kinh tế: -> Pháp bóc lột, đàn áp,..tước đoạt mọi quyền cơ bản của nhân dân ta; chúng không mang lại cho DT Việt Nam bất cứ một quyền nào. - Về quân sự: bán nước ta hai lần cho Nhật -> Nước ta không phải là thuộc địa của Pháp kể từ khi chúng bán nước ta cho Nhật. Pháp hèn nhát, không bảo vệ được nhân dân ta khỏi thảm hoạ phát xít Nhật; phản bội đồng minh. Tóm lại: các luận điểm đưa ra nhằm tố cáo chính sách cai trị vô nhân đạo của Pháp ở VN: vơ vét của cải, khủng bố giết chóc, bán nước,Chúng không có quyền tiếp tục khai hoá, bảo hộ nước ta. + Về phía nhân dân ta: - Nổi dậy giành chính quyền từ tay Nhật. - Đứng về phía đồng minh đánh phát xít. * Tóm lại: Nhân dân ta chứ không phải Pháp, đã giành độc lập từ tay Nhật bằng chính sức lực và xương máu của mình. Nhân dân ta phải là chủ nhân chân chính của nước Việt Nam. + Về phía các nước đồng minh: - Đã công nhận nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở hội nghị Tê-hê-răng -> Phải đương nhiên công nhận quyền của dân tộc Việt Nam. Tiểu kết: - Thực dân Pháp không có quyền gì ở Việt Nam. - Chúng ta có quyền được hưởng độc lập, là chủ nhân chân chính, duy nhất của nước Việt Nam. - Các dẫn chứng đều là các sự thực lịch sử khách quan -> làm cho lập luận trở nên chặt chẽ, thuyết phục, tạo tính chiến đấu mạnh mẽ cho tác phẩm. * Lời tuyờn bố với thế giới: - Nước Việt Nam cú quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đó thành một nước tự do, độc lập. - Nhõn dõn đó và sẽ quyết tõm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. 4. Kết luận: Vừa mang giá trị lịch sử vừa mang giá trị văn học. Ghi dấu một mốc son trong lịch sử dân tộc: khẳng định và tuyên bố chủ quyền, độc lập của Việt Nam trước nhân dân thế giới; bác bỏ những quyền lợi của Pháp ở Việt Nam. Tuyên ngôn độc lập như là một áng văn chính luận mẫu mực với hệ thống lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. TÂY TIẾN (Quang Dũng) A. Hoàn cảnh, xuất xứ: 1. Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đây là một đơn vị thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Lào - Việt, đồng thời đánh tiêu hao địch và tuyên truyền đồng bào kháng chiến. Địa bàn hoạt động của đoàn khá rộng: từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng về qua miền tây Thanh Hóa. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có nhiều học sinh, trí thức. Sinh hoạt của họ vô cùng thiếu thốn, gian khổ: trèo đèo, luồn rừng, lội suối, ăn uống kham khổ, ốm đau không có thuốc men, 2. Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về thành lập trung đoàn 52. Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị ít lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), ông viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. (Năm 1957, khi in lại Quang Dũng bỏ chữ “nhớ”, có lẽ vì cho là thừa). 3. Bài Tây Tiến rút trong tập Mây đầu ô (NXB Tác phẩm mới, 1986). B. Phân tích bài thơ: Đoạn 1 (Từ câu 1 đến câu 14) Đoạn thơ đầu gồm 14 câu như những thước phim quay chậm tái hiện địa bàn chiến đấu của người lính Tây Tiến. Đó là thiên nhiên Tây Tiến, là những ngời lính Tây Tiến cùng những kỷ niệm ấm tình quân dân. Nhà thơ nhớ về những miền đất trong nỗi nhớ “chơi vơi”. “Chơi vơi” là nỗi nhớ không có hình, không có lượng, không ai cân đong đo đếm được, nó ám ảnh tâm trí con ngời. Chữ “chơi vơi” hiệp vần với chữ “ơi” ở câu thơ trên khiến cho lời thơ thêm vang vọng. Trong nỗi nhớ “chơi vơi” ấy hiện lên cả một không gian xa xôi, heo hút, hiểm trở với những tên đất xa lạ: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. Câu thơ Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm với điệp từ “dốc” gối lên nhau cộng với từ láy tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” làm sống dậy con đường hành quân hiểm trở, gập ghềnh, dài vô tận. Âm điệu câu thơ như cũng khúc khuỷu như bị cắt đoạn như đường núi khúc khuỷu, có đoạn lên cao chót vót có đoạn xuống thăm thẳm. Những câu thơ phần lớn là thanh trắc càng gợi cái trúc trắc, trục trặc, tạo cảm giác cho độc giả về hơi thở nặng nhọc, mệt mỏi của người lính trên đường hành quân. Heo hút cồn mây súng ngửi trời Đây là cách nói thậm xưng thể hiện sự độc đáo của Quang Dũng. Nếu chỉ thấy súng chạm trời thì ta mới chỉ thấy được cái độ cao của dốc còn hình ảnh “súng ngửi trời” hàm chứa một ý nghĩa khác. Đó là vẻ tinh nghịch, chất lính ngang tàng như thách thức cùng gian khổ của người lính Tây Tiến. Câu thơ còn gợi cho ta cảm giác về độ cao, độ sâu không cùng của dốc. Ta bắt gặp ý thơ này ở câu thơ: Ngàn thước lên cao, ngàn thớc xuống. Cả hai câu đều ngắt nhịp 4/3. ý thơ gấp khúc giữa hai chiều cao thăm thẳm, sâu vòi vọi, dốc tiếp dốc, vực tiếp vực nhấn mạnh địa bàn hoạt động của những ngời lính vô cùng khó khăn, hiểm trở. Vượt qua những khó khăn, hiểm trở đó đã là một kỳ tích của những người lính. Vùng đất xa xôi hiểm trở với những nét dữ dội hoang dã: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mờng Hịch cọp trêu ngời Cảnh hiểm trở cheo leo nhưng đâu có tĩnh lặng thanh bình... Với những từ oai linh, gầm thét thác nước như một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh càng thêm rùng rợn ghê sợ. Các từ láy chiều chiều, đêm đêm càng tô đậm cái hiểm nguy: rình rập người lính không chỉ ở mọi nơi, mà còn ở mọi lúc trên con đường hành quân. Giữa những âm tiết toàn thanh trắc ấy chen vào câu thơ gần cuối đoạn thơ dài man mác toàn thanh bằng: Nhà ai Pha Luông ma xa khơi. Đây chính là hình ảnh thơ mộng mà hoang dã về thiên nhiên Tây Tiến. Câu thơ tạo nên nét thứ hai cho bức tranh về thiên nhiên Tây bắc: vừa hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở vừa đầy thơ mộng. Cứ một nét bút gân guốc lại xen vào một nét bút mềm mại, trữ tình tạo cho bức tranh về thiên nhiên Tây Tiến cân đối hài hòa. Nhắc lại những thử thách khắc nghiệt cũng là để nói đến sức chịu đựng bền bỉ của con người. Từ đây Quang Dũng vụt nhớ đến hình ảnh những đồng đội, dù can trường trong dãi dầu nhưng có khi gian khổ đã vượt quá sức chịu đựng khiến cho người lính đã gục ngã, nhưng gục ngã trong tư thế hành quân. Nói đến cái chết mà lời thơ cứ nhẹ như không, chẳng hề vương chút bi lụy. Quang Dũng không khoa trương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nhà thơ chỉ tả một tư thế: cái gian khổ ở trong đấy, cái anh hùng cũng ở trong đấy. Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già nhà thơ bỗng nhớ lại một kỷ niệm ấm áp tình quân dân. Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm nóng của tình người. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó tạo cho bức tranh một nét vẽ thơ mộng, ấm áp. Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn -> bức tranh của thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại, hiểm trở và người lính Tây Tiến với cuộc sống gian khổ, tinh thần anh dũng. Đoạn 2. Con người Tây Bắc duyên dáng và tài hoa và tâm hồn lãng mạn, trẻ trung của người lính Tây Tiến. Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con ngời. Đoạn này được xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng. Câu mở đầu đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa “Bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. “Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho ngời đọc. Kìa em xiêm áo tự bao giờ . “Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sớng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Khèn lên man điệu nàng e ấp. Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với ngời lính Tây Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Âm thanh kì bí ấy hòa với vũ điệu em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Chính không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những ngời lính Tây Tiến ngất ngây trước người và cảnh. Bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo: Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng ngời trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. Không gian dòng sông, bến bờ hoang dại giăng mắc một màu sương. Những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang bảng lảng dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho người t ... hực chất là một chương trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư (1946), được Kim Lân viết lại sau hoà bình, in trong tập Con chó xấu xí. Vợ nhặt hấp dẫn người ta vì lòng nhân ái, tình thương giữa con người với con người trong hoàn cảnh khốn cùng. 2. Tinh thần nhân đạo của Kim Lân qua Vợ nhặt. a) Nhà văn thể hiện được những tình cảm đẹp đẽ, hồn nhiên, nhân hậu của những người lao động. - Ngay trong cái đói chết người - con người vẫn đến với nhau bằng lòng vị tha cao cả, tình người ấm áp (thái độ của Tràng với người đàn bà, sự cảm thông an ủi của bà cụ Tứ với cô con dâu) - Trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, người ta vẫn cư xử với nhau thật lễ nghĩa (Tràng mời mẹ ngồi lên giường để thưa chuyện vợ con. Bà cụ Tứ phàn nàn không có dăm ba mâm mời họ hàng làng xóm). b) Nhà văn phát hiện lòng lạc quan yêu đời, khát khao hạnh phúc của người lao động. - Giữa cái đói, cái chết bám chặt lấy con người, Tràng lấy vợ. Họ không chết. Trụ lại được và còn vượt lên chuẩn bị cho cuộc sống tương lai. Thật là một sức sống không ngờ. - Lòng lạc quan yêu đời luôn tiềm ẩn trong những người lao động bình dị, trong bất kì hoàn cảnh nào, dù kề bên cái chết, những người lao động vẫn khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai (phân tích không khí sôi động của xóm ngụ cư khi Tràng về nhà cùng người đàn bà lạ. Tâm trạng phởn phơ khác thường của Tràng, câu chuyện của 3 mẹ con trong ngày đói chết mà toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này) c) Kim Lân tố cáo tội ác của giai cấp thống trị đẩy con người vào tình trạng khốn cùng - Nạn đói khủng khiếp đã bao phủ lên khắp các làng quê một không khí ảm đạm, chết chóc, thê lương (người chết nằm còng queo như ngả rạ. Tiếng quạ thê thiết trên bầu trời. Tiếng hờ khóc người chết dưới mặt đất.) - Số phận con người bị đẩy vào tình trạng khốn cùng, bị rẻ rúng như đồ vật (có thể nhặt được), thậm chí bị đẩy xuống hàng súc vật (ăn cả thứ cám heo) d) Nhà văn đã đứng hẳn về phía người lao động bênh vực, bảo vệ họ, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho họ - Thương yêu con người, Kim Lân không chỉ tố cáo tội ác của kẻ thù chà đạp lên quyền sống của con người mà còn đứng ra bênh vực, bảo vệ nhân phẩm cho họ (chú ý sự thay đổi tính cách của các nhân vật ở cuối tác phẩm và dụng ý của nhà văn). - Nhà văn tin tưởng, hi vọng vào một tương lai tươi sáng cho cuộc đời của những người lao động (thời điểm mở đầu và kết thúc câu chuyện, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng cuối tác phẩm) 3. Đánh giá chung: - Tinh thần nhân đạo của Kim Lân là điểm tựa vững chắc cho tình huống truyện độc đáo nhưng cũng đầy bấp bênh cuả Vợ nhặt. Nó chứng tỏ Kim Lân vừa có tài vừa có tâm, vừa có tay nghề vững, vừa có lòng nhân ái cao cả. - Vợ nhặt cho thấy cách nhìn đời, nhìn người ấm áp nhân hậu của Kim Lân, niềm tin của ông với những khát vọng chân chính của con người. Tất cả những điều đó cùng với một nghệ thuật truyện ngắn già dặn làm cho Vợ nhặt trở thành một thành tựu đáng kể của nền văn học Cách mạng. RỪNG XÀ NU (Nguyễn Trung Thành) A. Tỏc giả : - Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu. Ông vốn là nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp với tiểu thuyết nổi tiếng Đất nước đứng lên. Đó là ngòi bút gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, có nhiều thành tựu nhất khi viết về Tây Nguyên. B. Kiến thức cơ bản: 1. Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn Rừng xà nu được viết vào mựa hố năm 1965, khi đế quốc Mỹ đổ quõn ồ ạt vào miền Nam nước ta. Tác phẩm in lần đầu trên tạp chí Văn nghệ giải phóng (số 2-1965). Sau in trong tập Truyện và kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969). Rừng xà nu mang đậm chất sử thi, viết về những vấn đề trọng đại của dân tộc; nhân vật trung tâm mang những phẩm chất chung tiêu biểu cho cộng đồng; giọng điệu ngợi ca, trang trọng, hào hùng. 2. Hỡnh tượng cây xà nu - rừng xà nu: Đây là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hỡnh tượng cây xà nu - rừng xà nu nổi bật, xuyờn suốt tỏc phẩm, vừa mang ý nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng. a. Cây xà nu được miêu tả cụ thể, gắn bó với con người Tây Nguyên: - Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm trước hết như một loài cây đặc thù, tiêu biểu của miền đất Tây Nguyên. Mở đầu và kết thúc tác phẩm cũng bằng hỡnh ảnh của cõy xà nu à Cõy xà nu, rừng xà nu như chính dân làng Xôman, như người dân Tây Nguyên nơi núi rừng trùng điệp. - Cây xà nu gắn bó thân thiết với cuộc sống người dân Tây Nguyên trong sinh hoạt hàng ngày, trong kí ức của người Xô man, trong đấu tranh chống giặc; là lá chắn bảo vệ làng Xô man trước đạn pháo giặc. . b. Cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và số phận con người Tõy Nguyờn trong khỏng chiến chống Mỹ. - Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù gợi nghĩ đến những mất mát đau thương mà đồng bào Xôman đó phải trải qua trong thời kỡ cỏch mạng miền Nam bị khủng bố khốc liệt. . - Trong bom đạn chiến tranh, thương tích đầy mỡnh cõy xà nu vẫn hiờn ngang vươn lên mạnh mẽ như người dân Tây Nguyên kiên cường bất khuất, không khuất phục trước kẻ thù. . - Cây xà nu rắn rỏi, ham ánh nắng mặt trời tựa như người Xô man chân thật, mộc mạc, phóng khoáng yêu cuộc sống tự do. - Rừng xà nu bạt ngàn, rừng xà nu trùng trùng lớp lớp các thế hệ nối tiếp cũng chính là thể hiện sự gắn bó, sức mạnh đoàn kết và sự nối tiếp bất tận của các thế hệ, gợi liên tưởng đến sức sống vô tận, bền bỉ, bất diệt của con người Xô man (Chú ý kết cấu vòng tròn : Mở đầu, kết thúc là hình ảnh của rừng xà nu, cùng với sự trở về của Tnú sau ba năm xa cách) - Rừng xà nu tạo thành một bức tường vững chắc hiên ngang truớc bom đạn cũng là biểu trưng cho sức mạnh đoàn kết của người dân Tây Nguyên khiến kẻ thù phải kiếp sợ. (0,5 điểm) c. Kết luận: - Cây xà nu tượng trưng cho số phận đau thương và phẩm chất anh hùng của dân làng Xô man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. - Được xây dựng với cảm hứng sử thi hoành tráng, bút pháp lãng mạn. - Kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. 3. Hình tượng nhân dân làng Xô Man : Được miêu tả tương ứng với rừng cây xà nu qua nhiều thế hệ, thể hiện sự nối tiếp và trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. a) Cụ Mết: Là thế hệ đi trước, tham gia chống giặc từ thời chống Pháp - Là cây xà nu đại thụ của làng Xô man (được miêu tả qua dáng vẻ, cỏch núi, bản lĩnh, tấm lũng yờu thương đối với dân làng, đối với quê hương) à Hình ảnh biểu tượng biểu tượng cho sức mạnh tinh thần có tính truyền thống, cội nguồn của các dân tộc Tây Nguyên. - Là linh hồn của cuộc chiến đấu, là gạch nối giữa Đảng và dân làng đến với Cách mạng ; vững vàng, gan góc trong đấu tranh ; yêu thương chăm sóc thế hệ tương lai ; yêu qêu hương, tự hào về quê hương của mỡnh) à Cụ Mết tiêu biểu cho thế hệ già làng trong cuộc đấu tranh của dân tộc. b) Nhân vật Tnú: Được tác giả tập trung khắc họa tính cách lẫn số phận, mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giải phóng của nhân dân Tây Nguyên. * Số phận: - Nhỏ: mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống nhờ vào sự cưu mang đùm bọc của dân làng - Trưởng thành: Số phận của Tnú giống như số phận của người làng Xô man: Có gia đình, vợ, con nhưng đều bị giặc sát hại dã man. Bản thân Tnú cũng mang thương tích trên thân thể- hậu quả của những đòn tra tấn của kẻ thù: tấm lưng lằn ngang dọc, bàn tay cụt mười ngón. * Phẩm chất: - Gan góc, táo bạo, trung thực, trung thành với Cách mạng (giặc khủng bố dó man vẫn cựng Mai hăng hái vào rừng nuôi cán bộ, quyết tâm học tập để làm cán bộ, gan dạ dũng cảm khi làm giao liên, bị giặc bắt, bị tra tấn, quyết không khai, chỉ tay vào bụng Cộng sản ở đây). Khi lớn lên, Tnú trở thành người lãnh đạo dân làng Xô man bình tĩnh vững vàng chống Mỹ Diệm. - Yêu thương vợ con, dân làng và quê hương (Chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thự hành hạ, biết là thất bại, anh vẫn xông ra cứu. Xa làng Tnỳ nhớ làng, nhớ âm thanh và nhịp điệu sinh hoạt của làng ; khi về, anh nhớ tất cả mọi người). - Biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để dũng cảm chiến đấu, trả thù cho quê hương và gia đình (Khi xông ra cứu vợ con, anh bị bắt, bị đốt mười đầu ngón tay, Tnú quyết không kêu van à tiếng thét của anh trở thành hiệu lệnh cho dân làng giết giặc. Dù mất vợ con, dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ cũn hai đốt, Tnú vẫn nén đau thương, tham gia lực lượng vũ trang để góp phần giải phóng quê hương). - Có tinh thần kỷ luật cao : Ba năm đi bộ đội, dù nhớ làng nhưng được phép cấp trên mới dám về thăm làng. Khi được về thăm làng, dù rất lưu luyến song anh chấp hành đúng qui định, ở lại một đêm rồi ra đi * Tác giả đặc biệt miêu tả đôi bàn tay của Tnú, gây ấn tượng sâu sắc và đậm nét, qua đó hiện lên cả cuộc đời và tính cách nhõn vật (bàn tay khi cũn lành lặn là bàn tay trung thực, tỡnh nghĩa: Cầm phấn học chữ, cầm đá mài giáo, đặt lên bụng khi bị tra tấn, cầm tay Mai; với hai bàn tay không xông ra cứu vợ con – Bàn tay bị giặc đốt cụt, trở thành muời ngọn đuốc trở thành chứng tích tội ác của kẻ thù – Bàn tay cũn hai đốt vẫn cầm được súng để bảo vệ quê hương). Tóm lại: - Tnú là nhân vật có tính chất sử thi: số phận và phẩm chất của anh tiêu biểu cho con người Xô man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung. - Cảm hứng, giọng điệu chủ đạo là ca ngợi. - Làm phong phú thêm chân dung con người Vn anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ. c) Dít: Cùng với Tnú là đại diện cho thế hệ thanh niên, là lực lượng chiến đấu chính của dân làng- những cây xà nu đã trưởng thành. - Phẩm chất gan dạ, dũng cảm. - Tôn trọng kỉ luật. d) Bé Heng: Đại diện cho thế hệ măng non sẵn sàng tiếp bước cha anh. Rất háo hức tham gia đánh giặc, rất thông thuộc, tự hào về trận địa của dân làng. Mai, Dớt, bộ Henglà (sự dũng cảm của Mai, sự bình tĩnh, vững vàng của Dít và sự lạc quan trong sáng của bộ Heng). Tóm lại: Các thế hệ nhân dân Xô-man tiếp nối trong cuộc chiến đấu, càng về sau càng lớn mạnh. Nhà văn đã xây dựng được hệ thống nhõn vật tiêu biểu, có tác dụng làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên trong khỏng chiến chống Mỹ. 4. Nghệ thuật : Đặc sắc, đậm đà chất sử thi hùng tráng. Chất sử thi toát lên qua đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, hỡnh ảnh thiờn nhiờn, cỏc chi tiết nghệ thuật, giọng điệu, ngụn ngữ của tỏc phẩm: Đề tài, xung đột có ý nghĩa lịch sử : sự vùng dậy của dân làng Xô man chống Mỹ Diệm. Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng. Rừng xà nu làm nền cho bức tranh về cuộc đấu tranh chống giặc ( Cả rừng ào ào rung động, lửa cháy khắp rừng). Các nhân vật tiêu biểu được miêu tả trong bối cảnh trang nghiêm, hùng vĩ, vừa mang phong cách Tây Nguyên vừa mang phẩm chất của anh hùng thời đại. Giọng điệu, cảm hứng : Chuyện về sự nổi dậy của dân làng và cuộc đời Tnú được kể lại trong một đêm anh về thăm làng, qua lời cụ Mết, bên bếp lửa bập bùng - Giọng kể trang trọng như truyền cho thế hệ con cháu những trang sử bi thương và anh hùng của cộng đồng. Chuyện về thời hiện tại được kể bằng giọng điệu và cảm hứng ngợi ca. C. Kết luận: - Tác phẩm đó khắc họa được tập thể nhân dân anh hùng, gắn bó với nhau trong thời đại anh hùng, vừa mang dấu ấn của thời đại chống Mỹ, vừa mang phong cách của núi rừng Tây Nguyên. **********************
Tài liệu đính kèm: