Chuyên đề: Thơ kháng chiến (1945-1954) - Vấn đề 2: Bên kia sông Đuống

Chuyên đề: Thơ kháng chiến (1945-1954) - Vấn đề 2: Bên kia sông Đuống

I. TƯ LIỆU VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

“Mẹ tôi là người vùng quan họ. Bà thuộc rất nhiều làn điệu và hát hay nổi tiếng trong vùng.

Hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo của những câu ca quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày

nhỏ dại. Suốt thời thơ ấu tôi sống ở làng quê. Năm lên 8 tuổi tôi đã làm bài thơ lục bát đầu tiên, viết bằng

bút chì xanh đỏ, gửi cho một cô gái rất đẹp ở gần nhà, tên là Vinh. Lúc bắt đầu đi học, tôi học ở Bắc

Giang. Lớn hơn một chút, lúc học Cao đẳng tiểu học tôi lại về Bắc Ninh

pdf 9 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1430Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề: Thơ kháng chiến (1945-1954) - Vấn đề 2: Bên kia sông Đuống", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Chuyên đề 3: THƠ KHÁNG CHIẾN (1945-1954) 
 Vấn đề 2: BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG 
“Sông Đuống trôi đi 
Một dòng lấp lánh 
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ” 
(Hoàng Cầm) 
I. TƯ LIỆU VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 
 “Mẹ tôi là người vùng quan họ. Bà thuộc rất nhiều làn điệu và hát hay nổi tiếng trong vùng. 
Hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo của những câu ca quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày 
nhỏ dại. Suốt thời thơ ấu tôi sống ở làng quê. Năm lên 8 tuổi tôi đã làm bài thơ lục bát đầu tiên, viết bằng 
bút chì xanh đỏ, gửi cho một cô gái rất đẹp ở gần nhà, tên là Vinh. Lúc bắt đầu đi học, tôi học ở Bắc 
Giang. Lớn hơn một chút, lúc học Cao đẳng tiểu học tôi lại về Bắc Ninh 
 Cô đã nhắc đến bài thơ Bên kia sông Đuống thì tôi cũng xin kể luôn về trường hợp tôi sáng tác 
bài thơ này. Đó là dịp đầu năm 1948. Sau tết ta, trời đã chuyển sang tiết xuân nhưng vẫn còn hơi lạnh. 
Tôi cùng với Nguyên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Xuân Thu, Hoàng Tích Linh, Kim Lân đóng ở làng 
Thượng, huyện Phú Bình, Thái Nguyên. 
 Bên kia sông Đuống, dọc theo hữu ngạn là vùng quê tôi gồm: Gia Lâm, Lương Tài, Gia Bình, 
Thuận Thành. Kéo dài một vệt đến tận Phả Lại. Đó là một miền quê thơ mộng, trù phú. Nhưng từ năm 
1947, quân Pháp đã tràn lên chiếm đóng, càn quét. Lúc bấy giờ, ông Vương Văn Trà, người cùng làng tôi 
thành lập một tiểu đoàn du kích lấy tên là tiểu đoàn Thiên Đức đánh lại quân Pháp. Do thế địch đang 
mạnh nên đầu năm 1948 tiểu đoàn phải rút lui lên khu an toàn. Nơi đây, ông Chu Tấn Văn và ông Lê 
Quảng Ba lúc đó ở Bộ tư lệnh khu XII yêu cầu ông Vương Văn Trà báo cáo tình hình. Hôm đó, tôi được 
mời nghe. Đêm về tôi không sao ngủ được.Lòng buồn nôn nao nỗi nhớ tiếc quê hương bị chiếm đóng, tàn 
phá. Bao tình cảm riêng – chung lẫn lộn cứ trào lên mãnh liệt. Và thế là, trong khi các đồng chí đang ngủ 
ngon giấc, tôi thắp đèn ngồi viết Bên kia sông đuống . Tôi còn nhớ rất rõ trạng thái xúc cảm của tôi khi 
viết bài thơ này. Dường như tôi viết không kịp. Phải cố gắng lắm tôi mới theo đuổi được những câu thơ, 
ý thơ dồn dập, trào lên ngọn bút. Chưa bao giờ tôi thấy quê hương lại cụ thể, máu thịt xót xa dường ấy. 
Toàn thân tôi run lên. Những hình ảnh, âm thanh màu sắc dệt nên quê hương thân yêu giờ như chìm 
trong lửa cháy, nước mắt và trong “ máu loang chiều mùa đông”. Sau mỗi câu viết ra, tôi cảm thấy ớn 
lạnh cả xương sống. Dường như chúng từ đó mà ra. 
Cứ như thế, cho đến khi tôi viết câu thơ cuối cùng “ Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” 
thì cũng là lúc trời rạng sáng. Lúc này tôi mới thấm mệt nhưng trong lòng lại thấy thanh thản, nhẹ nhõm 
như vừa được giải tỏa. Thấy Nguyên Hồng có vẻ đã thức giấc, tôi gọi anh dậy và đọc bài thơ cho anh 
nghe. Mới được dăm câu anh đã khóc. Nguyên Hồng vẫn vậy, và cứ thế nức nở cho đến khi tôi đọc hết 
bài thơ. Anh đòi đánh thức cả Nguyễn Địch Dũng, Xuân Thu, Kim Lân dậy để tôi đọc lại. Sau đó anh bắt 
tôi chép thành ba bản. Một bản gửi cho báo Cứu quốc, chỗ anh Như Phong và anh Tô Hoài. Một bản gửi 
cho báo nhân dân. Một bản gửi đến Hội Văn Nghệ, chỗ anh Nguyễn Huy Tưởng. Bài thơ được báo Cứu 
Quốc in lần đầu tiên khoảng tháng 6/1948. Cho đến giờ, tôi vẫn thích phần đầu của bài thơ. Đó là những 
gam màu hồn nhiên nhất, tươi tắn nhất trong bức tranh quê hương. Đó là những xúc cảm mãnh liệt nhất, 
trong sáng nhất mà tôi dành cho miền đất thân yêu của tôi” 
(Trích bài “ Chuyện về lá diêu bông và bài thơ Bên kia sông Đuống” do Hoàng Cầm kể. Lưu 
Khánh Thơ ghi, tạp chí văn học số 3, 1991) 
II. CÂU HỎI: 
1/ Nhà thơ Hoàng Cầm sáng tác bài thơ Bên Kia Sông Đuống trong hoàn cảnh nào? 
2/ Lựa chọn và phân tích ngắn một vài câu thơ có giá trị biểu cảm trong “Bên Kia Sông 
Đuống”của Hoàng Cầm 
3/ Bình giảng ba câu thơ: 
 “ Sông Đuống trôi đi 
 Một dòng lấp lánh 
 Nằm nghiêng nghiêng trong kháng trường kỳ” 
 * Gợi ý làm bài
1/ Sinh ra và lớn lên ở vùng Kinh Bắc, hồn thơ Hoàng Cầm gắn bó mật thiết, sâu nặng gắn bó với 
vùng quê cổ kính này. Tuy nhiên tình yêu quê hương tha thiết ấy, nếu không gặp được hoàn cảnh cụ thể 
thì mãi mãivẫn cứ nằm im lìm trong trái tim nhà thơ. 
Hoàn cảnh tạo nên cảm hứngcủa bài thơ đã đến vào một đêm giữa tháng 4 năm 1948. Đêm đó 
sau khi nghe xong những thông tin về tình hình giặc đánh phá quê hương Kinh Bắc, Hoàng Cầm cực kỳ 
xao xuyến tâm tư chồng chất những nhớ thương, nuối tiếc cùng với niềm căm giận sâu lắng. Hoàng Cầm 
đã viết bài thơ Bên kia sông Đuống trong một tâm trạng đầy xúc cảm đó. 
2/ Một số câu: - “ Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Nhờ hình ảnh này mà con 
sông Đuống không còn là vật vô tri vô giác, mà trở nên sống động như có tâm trạng, có linh hồn. 
 “Sao xót xa như rụng bàn tay” 
Cũng là một câu thơ sáng tạo, dùng từ thật lạ. Quê hương bị kẻ thù chiếm đóng, nỗi đau về tinh 
thần, biến thành nỗi đau về thể xác, có thể cảm nhận được một cách cụ thể: “ Như rụng bàn tay”. Cách so 
sánh ở đây đã đem lại hiệu quả đáng kể: nỗi đau được tô đậm, được khắc hoạ cụ thể, do đó, gây được ấn 
tượng cho người đọc. 
 “Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” 
Gợi được bề dày lịch sử quê hương. Những ngày thái bình yên ả đã trôi đi vào dĩ vãng. Nay giặc 
đến, quê ta “ngùn ngụt lửa hung tàn”. Nhà thơ nuối tiếc, hoài vọng cho một thời tươi đẹp. 
 Nhưng thời tươi đẹp đó đã qua mất rồi, có chăng chỉ còn thấp thoáng trong kí ức của nhà thơ. 
 “ Có nhớ từng khuôn mặt búp sen” 
Phác hoạ sinh động khuôn mặt người con gái vừa bầu bĩnh đầy đặn lại vừa tươi tắn thanh nhã. 
Câu thơ gợi cho người đọc liên tưởng đến những người con gái quê hương mộc mạc, bình dị nhưng thanh 
cao trong đó. 
3/ Có thể nói cái nhìn toàn cảnh “Bên kia sông Đuống”của tác giả là từ “ bên này”và lấy con 
sông Đuống làm biên giới. Vậy phải chăng điều làm nhói lòng nhân vật xưng “anh” trong bài thơ là tất 
cả những gì thuộc bên kia sông Đuống? Không ! Nó gồm cả cái đường biên giới ấy tức là con sông ấy 
nữa. Chẳng thế mà Hoàng Cầm viết: 
 “Sông Đuống trôi đi 
 Một dòng lấp lánh 
 Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì” 
 Không biết sông Đuống là con sông thứ bao nhiêu rồi đi vào sáng tác văn chương, đặc biệt là nó 
đã chảy vào thơ những mạch nguồn rào rạt . Song, dường như phần lớn, chúng đều được bắt nguồn từ 
nỗi nhớ của các nhân vật trữ tình. Từ “Nhớ con sông quê hương”, “Giữ bao kỷ niệm giữa dòng trôi” đến 
“Dòng sông quê hương trong vắt” trong “đôi mắt” “em”của Tế hanh, từ lời thì thầm: “ Quý con sông 
Hồng phù sa cuộn đỏ”đến thiết tha: “Yêu con sông Thương nước chảy đôi dòng” của Nguyễn Viết 
Lãm Cho nên, chúng thường mang cái dáng xưa là rất yếu. Con sông Đuống của Hoàng Cầm thì lại 
khác. Ở đây có sự chập lại giữa hai thì: hiện tại và quá khứ. Hiện tại – nếu ta chỉ nhìn cục diện khổ thơ 
đang xét. Còn quá khứ? Chính là bờ “Cát trắng phẳng lì” gắn với “ngày xưa” (“Ngày xưa cát trắng 
phẳng lì”). Khổ thơ trên đã cổ tích hóa con sông, trùm phủ lên nó một lớp khói sương lãng đãng. Dĩ 
nhiên chưa tới độ “mịt mờ” như mặt Hồ Tây trong bài ca dao kia nhưng cái lớp sương khói cũng đủ nói 
với ta rất nhiều về một khoảng không gian tâm tưởng. Vâng! Chỉ có không gian tâm tưởng và chỉ có cảm 
xúc nằm trong không gian tâm tưởng mới thực sự làm cơ sở ban đầu để tác giả viết hai câu xếp vào loại 
những câu thơ hay nhất của nền thơ hiện đại. 
“Một dòng lấp lánh 
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì” 
 Biết cắt nghĩa làm sao cái “lấp lánh” của “một dòng” trôi và trời ơi, còn cái dáng “nằm nghiêng 
nghiêng” này nữa. Anh bây giờ đứng đây, lặng lẽ, trơ trọi mà hướng cặp mắt đau đáu,mênh mang tuyệt 
vọng về bên ấy. Đúng là vị trí đứng của anh phải xa bên ấy lắm nhưng nỗi nhớ hẳn phải cồn cào hơn và 
niềm đau trong anh càng quặn thắt hơn thế nữa nên anh mới ngắm được cái tư thế “nằm nghiêng 
nghiêng” cùng cái “dòng lấp lánh” kia được. Và, suy cho cùng thì hai hình ảnh này đã bổ sung cho 
nhau. Mặt nước phải “nghiêng nghiêng”, ánh nắng phản chiếu xuống nước mới “lấp lánh”. Chứ còn 
dòng sông cứ bình phẳng đôi dòng như “con sông quê hương” của Tế Hanh mà lại có “lòng sông lấp 
lánh” thực khó lắm. Song cái hay, cái độc đáo mang lại giá trị đột xuất cho khổ thơ và cả bài thơ phải 
chăng vẫn là cái dáng “nằm nghiêng nghiêng” của con sông Đuống? Để từ đó con sông như có hồn, có 
thần thái và đầy nữ tính. Nó không ầm ào, thở phì phò như con sông Hồng “cuộn đỏ phù sa” của Viết 
Lãm cũng chẳng chết cứng như dòng Hương “buồn thiu” của Hàn Mặc Tử. Mà, nó duyên dáng, e thẹn 
như “em” – nhân vật xuất hiện ngay ở câu đầu bài thơ (mặc dầu “em” chính là sự phân thân của tác giả) 
và hiền hòa như “những cô hàng xóm răng đen”, “cười như mùa thu tỏa nắng”, “trên vùng đất Kinh Bắc 
trù phú. Dòng Đuống bình thản, hiền hòa là thế nhưng sao nó lại phải gắn với cuộc “kháng chiến trường 
kì” (thời gian) gắn với cảnh “lưỡi dài lê sắc máu” của “chó ngộ một đàn”, với ruộng khô, nhà cháy, với 
“chia lìa trăm ngả” với “tan tác về đâu” và tư thế “nghiêng nghiêng” ấy nép mình nấp trốn những cái 
hoàn toàn trái với thuộc tính của nó thậm chí khi cần trong âu lo, hoảng loạn nó có thể chạy trốn nữa? 
Hèn chi mà liền khổ thơ sau, nhà thơ có cảm giác “nhớ tiếc” mà “xót xa” đến nỗi “như rụng bàn tay”. 
Tôi chắc rằng khi viết khổ thơ này dù nó là những dòng đầu của bài thơ, Hoàng Cầm không đắn đo, cân 
nhắc về nghệ thuật lắm đâu song chính từ lặp “nghiêng nghiêng”, vần “iêng” (“nghiêng nghiêng”, 
“kháng chiến”) cùng sự chuyển đổi đột ngột từ câu ngắn (ngắn hơi) bốn tiếng: 
“Sông Đuống trôi đi 
Một dòng lấp lánh” 
 tới câu dài (dài hơn) tám chữ: 
“Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì” 
 Đã tạo cho khổ thơ một tâm trạng, một cái hơi tiếc nuối rất cần thiết (không phải đợi tới câu 
“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc” của khổ thơ kế mà ta mới nhận ra điều ấy). Như vậy, chỉ qua một câu 
thơ thôi, tác giả đã cho ta phát hiện cùng một lúc cả độ viền và độ nhòe, cái sáng tỏ và cái mơ hồ của thơ 
ca. Thông qua tâm trạng “nhớ tiếc” của ông là hình ảnh cô gái e dè, ấp úng rất “có duyên” hay cái dáng 
vẻ sợ sệt đến tội nghiệp của dòng Đuống và của cả những cô gái hiền lành vùng Kinh Bắc mà tác giả 
muốn nói? Khổ thơ hay và nhiều tầng nghĩa là ở chỗ này. 
 Bao quát lại, ấn tượng khắc chạm trọn vẹn nhất vào tâm hồn người đọc qua khổ thơ vẫn là tính cá 
thể của con sông Đuống. Nó cũng mang những nét tâm trạng như con người, cũng cử động cựa quậy 
chừng như muốn bứt khỏi cái khuôn khổ một dòng sông mà đi. Chính điểm sáng tạo này đã mang lại giá 
trị đặc biệt cho khổ thơ nói riêng và cho toàn bài thơ nói chung. Để từ đây, ta nhìn con sông Đuống của 
Hoàng Cầm khác “Con sông quê hương” của Tế Hanh, khác con sông miệt Vàm Cỏ Đông của Hoài Vũ. 
Bởi, cùng lắm Tế Hanh chỉ hé mở cho ta thấymột “con sông xanh biếc” có “ nước gương soi tóc những 
hàng tre”- rõ ràng con sông của Việt Nam là đặc sản của Việt Nam nhưng thử hỏi: làm sao đếm hết ở 
nước này có bao nhiêu con sông? Ngược lại, tìm ra cái dáng “ nằm nghiêng nghiêng””bãi mía bờ 
dâu”cùng bờ “cát trắng phẳng lì”kia thì chỉ có ở mỗi con sông Đuống của Hoàng Cầm, chỉ có ở mỗi con 
sông Thiên Đức – Một nhánh của Sông Hồng trên vùng đất bắc Ninh mà thôi. 
Tôi sinh ra và lớn lên trên mảnh đất nam Bộ. Cái vị ngọt của ngọn mía lau, của dòng Cửu Long 
Giang chín nhánh uốn khúc tôi đã nếm; sóng nước Hàm Luông tôi đã trải qua. Còn xứ Huế đẫm tình với 
cô gái Đồng Khánh “ chi mô rứa” với sông Hương, núi Ngự tuy xa song tôi đã tỏ vì nghe nhắc nhiều 
quá. Phải đợi tới hôm nay. Khi chỉ thâm nhập vào mỗi nhịp đập trái tim xốn sang của Hoàng Cầm, cọ xát 
chung với nỗi đau “ rụng rời” cho quê hương mình của Bùi Tằng Việt, tôi mới hay mình còn biết đến con 
sông Đuống e lệ, lặng lờ và bước đầu thấy được trên mình Tổ Quốc một “vùng đất Kinh Bắc huê tình, 
diễm lệ, đầy ắp huyền thoại và bảng lảng một làn sương khói dân ca”. 
 (Quang Huy – “Lời giới thiệu tập thơ Hoàng Cầm”-1990) 
III. LÀM VĂN 
Đề 1: Bình giảng mười câu đầu trong bài “ Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm 
 “ Em ơi, buồn làm chi. 
 () Sao xót xa như rụng bàn tay” 
 *Bài làm
Mười câu đầu là cái nhìn toàn cảnh “Bên kia sông Đuống” 
- Sáu câu đầu có vần “i” chi phối. Những câu thơ nghe như một tiếng an ủi, thầm thì của nhân vật 
trữ tình với “em”. Ngỡ như có một người con gái nhỏ đầy đau khổ, đứng chết lặng bên này sông mà 
không được qua sông. Tác giả lên tiếng vỗ về “em” nhưng cũng là vỗ về chính mình. 
- “Em” là một đại từ không xác định. Em là một cô gái đã gắn bó với “Bên kia sông Đuống” em 
là người đồng quê. Em là một cô gái Kinh Bắc của ngày xưa, đã từng quen nhau, đã từng gắn bó, nhưng 
chưa có điều kiện để cau trầu. Cho nên tương lai hết bóng giặc: “ Anh lại tìm em”. Nhà thơ cần có một 
đối tượng để được giãi bày tâm tình dào dạt của mình. “Em” có thể là nhân vật của kí ức, cũng có thể là 
nhân vật trữ tình tự phân thân đấy thôi. 
- Toàn cảnh không chỉ có không gian mà cả thời gian nữa. Ta thấy dòng thời gian tha thiết trôi 
theo dòng sông Đuống. 
Sông Đuống trôi đi 
 Một dòng lấp lánh 
 Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì 
 Thật khó giải thích cho ra lẽ cái “nằm nghiêng nghiêng” của con sông Đuống. Chỉ biết rằng cái 
dáng ấy mới tạo cho sông Đuống thành một sinh thể có hồn và đầy tâm trạng. 
 Cái nép mình e lệ bên “bãi mía bồ dâu” tạo nên duyên sắc cho một dòng sông? Hay là sự lo âu, 
vắng lặng khi giặc về? 
- Câu thơ kết thúc đoạn một là một hình ảnh rất cụ thể như cảm giác được nỗi lòng đau xót của 
nhân vật trữ tình: 
“Sao xót xa như rụng bàn tay” 
 Đề 2: Bình giảng đoạn thơ 
“Bên kia sông Đuống 
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng 
() Bây giờ tan tác về đâu” 
* Bài làm 
Quê hương nếu ai không nhớ 
Sẽ không lớn nỗi thành người 
(Quê hương – Đỗ Trung Quân) 
 Có lẽ đúng như thế! Nếu Hoàng Cầm không yêu quê hương, nhớ quê hương, tha thiết với quê 
hương và đau nỗi đau của quê hương thì có lẽ anh sẽ không làm được bài thơ “Bên kia sông Đuống” hay 
như vậy. Tác phẩm đã diển tả sinh động hình ảnh quê hương ở thời bình và thời chiến mà tiêu biểu là 
đoạn: 
“ Bên kia sông Đuống 
 Bây giờ tan tác về đâu?” 
 Đã hơn một lần ta bắt gặp mùi hương lúa nếp đầu mùa trong các tác phẩm văn học Việt Nam. 
Nguyễn Đình Thi đã ngửi mùi thơm hương cốm mới vào một sáng mùa thu. Ở đây ta lại nghe thoang 
thoảng mùi thơm lúa nếp trên quê hương Kinh Bắc. Quê hương hiện về với bao cảnh đẹp. Những bờ dâu 
bãi cát, nương mía nương ngô trù phú xanh tươi và đọng lại với thanh khiết của hương lúa nếp. Phải! Đó 
là cái mùi dường như là “đặc sản” chỉ có ở dân tộc Việt Nam. Người dân đi đâu cũng nhớ về hương lúa, 
hương thơm của những cánh đồng trĩu hạt nặng bông là kỉ niệm của riêng mình: 
Cái mộc mạc lên hương của lúa 
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người 
( Hơi ấm ổ rơm – Nguyễn Duy) 
 Bên cạnh hương lúa nếp ấy, quê hương Kinh Bắc được nhắc đến với những tranh làng Hồ đậm 
màu dân tộc. Những chú lợn với các xoáy âm dương xoay tròn tượng trưng cho sự hòa hợp của đất trời 
và đó cũng là nguyện vọng làm ăn phát đạt của người dân. Rồi các chú bé đầu để chỏm với những bức 
tranh hứng dừa thật đặc sắc và đám cưới chuột hiện lên thật vui nhộn đã phản ánh những nét sinh hoạt và 
phong tục cổ truyền của làng quê Việt Nam. Đời sống văn hóa tinh thần người dân thật chân chất bình dị 
nhưng chan hòa không khí vui tươi, đoàn kết. Thật độc đáo khi Hoàng Cầm phát hiện gam màu trong bức 
tranh ấy là “màu dân tộc” phải, đó là màu của dân tộc Việt chứ không phải màu du nhập từ phương trời 
nào khác. Màu ấy đã được những nghệ nhân tìm tòi khai thác từ loài cỏ cây, từ hoa đồng cỏ nội để pha 
chế sắc màu. Màu dân tộc phải được thổi lên loại giấy cũng rất dân tộc; “giấy điệp”. Đó là loại giấy được 
tráng lên bằng chất liệu vỏ sò, vỏ ốc để có sắc màu trắng tinh khiết Nỗi nhớ quê hương với những bức 
tranh làng Hồ nổi tiếng đã gợi lại bao kỉ niệm ngọt ngào trong kí ức nhà thơ. Nỗi nhớ êm đềm như khúc 
hát ru trên nhịp nôi đưa nhẹ nhàng và hình như Hoàng Cầm cũng muốn ôm trọn lấy nó. Điều đặc biệt là 
trong đêm khi nhớ về quá khứ thì những mùi hương có sức khơi gợi đánh thức con người mãnh liệt. Chút 
yên hương của quê nhà ấy chính là điểm gợi đầu tiên để Hoàng Cầm sang bên kia sông Đuống bằng suy 
tưởng – Nhớ về mùi hương nó rất độc đáo nhưng cũng rất tự nhiên bởi vì những hương thơm, giọng hò 
là “bóng” chứ không phải là “hình” của hiện thực. Nó rất khó nắm bắt nhưng cũng dễ khơi gợi một 
vùng trời kỉ niệm thân yêu: 
“Sao có thể ôm tròn nỗi nhớ 
Trong đêm giày vò gầy tiếng dế giữa bao la 
Sao có thể ướp hương thơm nội cỏ 
Với mùi lúa lên đòng làm kem mát cho da?” 
(Chút yên hương quá khứ – Thái Quang Vinh) 
 Thế nhưng cái ước muốn ấy không bao giờ nhà thơ thực hiện được. Vì sao thế? Chiến tranh, đơn 
giản hai chữ ấy nhưng đã chứa trong đó bao sự tàn phá chết chóc thật khủng khiếp, Quang Dũng từng xót 
xa “Những xác già nua ngập cánh đồng” và căm giận “Bao lần rồi xác trẻ trôi sông?” 
 Hoàng Cầm cũng đồng tâm trạng đó, quê hương tiêu điều xơ xác thê lương: 
“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp 
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn 
Ruộng ta khô 
Nhà ta cháy 
Chó ngộ một đàn 
Lưỡi dài lê sắc máu 
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang” 
 Nhịp thơ đang kéo dài bỗng tắc nghẽn lại, dồn ứ lại với ba tiếng trong một dòng: 
Ruộng ta khô 
Nhà ta cháy 
 Nhịp gắt cắt ra đối với nhịp bình thường. Dường như bao căm giận, dồn nén được gói trọn vào 
hai dòng thơ này. Hoàng Cầm đã hiểu tinh tế tâm lí người nông dân. Ruộng và nhà là tài sản quý nhất của 
họ, là gia sản mà họ kế thừa từ đời này sang đời khác nhưng giờ đây không còn gì cả, đã khô đã cháy hết 
rồi. Câu thơ mang tính chất liệt kê nhưng vẫn có sức khái quát cao vì đã biểu hiện một cách sinh động nỗi 
lòng người dân. 
 Dòng thơ “Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang” buông chùng như tiếng thở dài bế tắc. Câu thơ như 
kêu cứu, van nài bên bờ vực thẳm nhưng dường như không ai cứu được nên nó rơi vào tuyệt vọng. Cái 
độc đáo của nhà thơ Hoàng Cầm là ở chỗ anh không nói đến con người mà chỉ hướng đến bức tranh. Lúc 
đầu thì “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong, màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”. Hai câu thơ đã cô 
đọng và thể hiện khá đầy đủ những nét đặc sắc của tranh làng Hồ: Cái hồn dân gian và dân tộc của nó từ 
đề tài (gà, lợn) đến đường nét và màu sắc tươi sáng (sáng bừng, nét tươi trong) chất liệu độc đáo (giấy 
điệp). Còn về sau thì ông dùng hai bức tranh tương phản để nói cảnh chia lìa. 
 Trên là hòa bình, là quá khứ, dưới là chiến tranh, là hiện tại; trên là sum họp dưới là chia lìa, xưa 
là cuộc sống, nay là cái chết, xưa là thiên đường hạnh phúc nay là địa ngục trần gian. 
 Hình tượng bức tranh như sống động trước mắt ta: 
“Mẹ con đàn lợn âm dương 
Chia lìa đôi ngã 
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã 
Bây giờ tan tác về đâu?” 
 Tranh dân gian dường như trở thành tranh của tâm hồn chính mà thơ nó là cuộc sống, là nhịp thở 
của vùng Kinh Bắc. Nó chen vào nỗi nhớ của anh và thành một yếu tố quan trọng trong nỗi nhớ quê 
hương. Câu thơ như trộn lẫn thực và ảo vì đàn “chó ngộ”, “mẹ con đàn lợn âm dương”, “đám cưới 
chuột” đang quay cuồng trong cơn lốc chiến tranh ảo vì nhớ lại hình ảnh êm đềm quá khứ, thực vì nó 
sống động trong tâm trí nhà thơ như những cảnh thật ngoài đời, như con người thật quê hương. Thật đúng 
như thế vì những bức tranh làng Hồ chính là cái nhìn và niềm ao ước của con người về cuộc sống ấm no 
yên vui hạnh phúc thanh bình mà nay chỉ là niềm hoài vọng và anh cũng không biết rõ “bây giờ tan tác 
về đâu?”. Đó cũng là sự xót xa đau đớn, căm hận. Nó trở thành điệp khúc lặp đi lặp lại ở những đoạn sau 
để cuối cùng “chúng ta không biết nguôi hờn”. 
 “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm hay chính là nỗi lòng nhà thơ khi hay tin giặc chiếm quê 
mình. Có lẽ vì vậy, nên khi tiếp xúc lần đầu với bài thơ Nguyên Hồng đã tuôn trào nước mắt Đoạn thơ 
khép lại nhưng mở ra trước mắt ta những hình ảnh tươi đẹp về ngày đất nước hòa bình thống nhất để quê 
hương Kinh Bắc bên kia sông Đuống không còn “tan tác về đâu” mà sẽ giống dòng sông Đáy. 
 Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc 
 Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng 
(“Đôi mắt người Sơn Tây - Quang Dũng) 
 Đề 3: Bình giảng hình ảnh mẹ già và con thơ trong “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm. 
* Bài làm 
 Trong chiến tranh, bà mẹ hiện lên thật tội nghiệp. 
 Câu thơ như dựng lại cả một đời cơ cực khổ nhục: 
“Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong” 
 Và gia tài của mẹ: “Dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng, vài thếp giấy Mẹ kiếm sống vất 
vả trong “phiên chợ nghèo” ngay cả lúc chợ đã vãn chiều, vẫn hi vọng bán được chút tiền còm (“Chiều 
mùa đông”). Vậy mà bà mẹ ấy lại phải bươn chải trong thời chiến. Số phận mẹ, cách kiếm sống sinh nhai 
của mẹ thật mỏng manh làm sao. “Chợ lũ quỷ vài ba vết máu”. 
 Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh bà mẹ cứ tái hiện đi lại trong mấy câu thơ ngắn đến ba lần 
trong thơ Hoàng Cầm (ta biết rằng mẹ Hoàng Cầm cũng có một gánh hàng rong và giờ đây cũng đang ở 
“bên kia sông Đuống”!) 
 Bà mẹ “bước cao thấp” lầm lũi theo “bờ tre hun hút” trên con đường lầy “Đường trơn mưa lạnh 
mái đầu bạc phơ”.Và có một cánh cò bay ngang (đâu phải là con cò bay lả bay la mà những người bên 
kia sống Đuống thường ca hát. Con cò thời chiến cũng hốt hoảng vỗ cánh bay lên vùn vụt không biết 
nghỉ cánh nơi nào?) Cò vốn là biểu tượng của người phụ nữ vất vả trong ca dao dân ca. Cò không biết về 
đâu? Mẹ ta cũng sẽ bước về đâu trong khi “chưa bán được một đồng”. 
 Nạn nhân tội nghiệp nhất trong chiến tranh là những đứa trẻ vô tội. Trẻ vừa bị đói khát 
lại luôn luôn bị cái sợ đe dọa. Cái chết luôn ám ảnh, hình ảnh lũ quỷ mắt xanh trừng trộ ám ảnh 
cả những giấc mơ. 
* * * 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvantap3-benkiasongduong.pdf