Tham luận: Tăng cường các yếu tố trực quan trong dạy học toán

Tham luận: Tăng cường các yếu tố trực quan trong dạy học toán

1. Thực trạng dạy và học bộ môn Toán của trường THPT Bế Văn Đàn

Trường THPT Bế Văn Đàn là một trường có cơ sở vật chất tốt, có đội

ngũ giáo viên tương đối trẻ, nhiệt tình, yêu nghề. Ban giám hiệu nhà trường

luôn quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo tốt các công việc của nhà trường. Nhà

trường đang từng bước nâng cao chất lượng dạy và học.

Các giáo viên Toán của trường đều là các giáo viên trẻ, luôn cố gắng

trong việc dạy học và nâng cao năng lực chuyên môn, song do kinh nghiệm

còn thiếu, chất lượng đầu vào của HS còn thấp nên việc dạy và học bộ môn

Toán của trường chưa đạt được hiệu quả cao.

pdf 18 trang Người đăng ngochoa2017 Lượt xem 1197Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Tham luận: Tăng cường các yếu tố trực quan trong dạy học toán", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CAO BẰNG 
 ĐƠN VỊ: TRƯỜNG THPT BẾ VĂN ĐÀN 
BÁO CÁO THAM LUẬN 
TĂNG CƯỜNG CÁC YẾU TỐ TRỰC QUAN 
TRONG DẠY HỌC TOÁN 
 Người thực hiện: Đàm Thu Chung 
 Giáo viên môn: Toán 
 Đơn vị công tác: Trường THPT Bế Văn Đàn 
Cao Bằng, tháng 2 năm 2013 
 1 
1. Thực trạng dạy và học bộ môn Toán của trường THPT Bế Văn Đàn 
Trường THPT Bế Văn Đàn là một trường có cơ sở vật chất tốt, có đội 
ngũ giáo viên tương đối trẻ, nhiệt tình, yêu nghề. Ban giám hiệu nhà trường 
luôn quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo tốt các công việc của nhà trường. Nhà 
trường đang từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. 
Các giáo viên Toán của trường đều là các giáo viên trẻ, luôn cố gắng 
trong việc dạy học và nâng cao năng lực chuyên môn, song do kinh nghiệm 
còn thiếu, chất lượng đầu vào của HS còn thấp nên việc dạy và học bộ môn 
Toán của trường chưa đạt được hiệu quả cao. 
Qua phiếu điều tra khảo sát và thực tiễn dạy học của bản thân cho thấy, 
chất lượng đại trà của HS còn yếu. Số HS tự mình tiếp thu và giải được các 
bài toán không nhiều, hầu hết HS còn yếu các kĩ năng kiến tạo kiến thức (yếu 
về định hướng giải toán, yếu về kĩ năng chuyển đổi bài toán, kĩ năng chuyển 
đổi ngôn ngữ, kĩ năng phát hiện vấn đề để giải quyết vấn đề,...). Đa số HS 
chưa biết phương pháp học, nên hiệu quả học tập trong nhà trường là chưa 
cao. Kỹ năng ghi chép và nhớ còn “ngự trị”, “lấn át” những kỹ năng khác 
như: Tự đọc, tự suy nghĩ, tìm tòi, tự tóm lược,  Điều này ảnh hưởng rất lớn 
tới việc học ở những bậc học cao hơn. Có đến 80% HS chỉ học thuộc lòng 
những gì GV cho ghi trong vở và những định nghĩa ở SGK, chỉ khoảng 10% 
HS tự giác làm bài tập ở sách bài tập và sách tham khảo, 70% HS chỉ làm 
những bài tập dễ ở SGK, 20% HS hầu như không làm bài tập ở nhà. HS còn 
lười suy nghĩ, chưa tích cực tư duy hoạt động trí não tìm tòi phát hiện vấn đề 
và giải quyết vấn đề, tiếp thu kiến thức một cách thụ động nên dễ quên, không 
vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào giải toán. HS chưa có thói quen tư duy tìm 
tòi, sáng tạo, khai thác các vấn đề mới từ những cái đã biết, đã học. Có 
khoảng 30% HS chú ý nghe giảng, suy nghĩ, tích cực phát biểu, xây dựng bài, 
55% chủ yếu chỉ nghe giảng và ít khi phát biểu, 15% không chú ý nghe giảng. 
Đa số HS (65%) cho rằng Toán học là môn học trừu tượng, khó hiểu, phải học 
là do bắt buộc nên không hứng thú học tập. 
 2 
Bên cạnh đó một số GV còn chưa thực sự cố gắng trong việc đổi mới 
phương pháp. Chưa xây dựng được hứng thú học tập cho HS, chưa biết cách 
tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp với các đối tượng HS. 
2. Mục tiêu của việc tăng cường các yếu tố trực quan trong dạy học: 
a. Kiến thức 
Để giảm bớt tính trừu tượng của môn Toán thì trong quá trình dạy học 
GV phải tăng cường sử dụng các yếu tố trực quan trong quá trình giảng dạy 
như: Các mô hình, các phần mềm hỗ trợ dạy học, các loại biểu đồ... Khi dạy 
học chương trình toán lớp 10 có nhiều nội dung GV nên thường xuyên liên hệ 
với thực tiễn làm cho HS tích cực, hứng thú trong học tập cụ thể như: Tập 
hợp dùng để biểu diễn cho số lượng các phần tử, lượng giác dùng đo các 
khoảng cách không tới được, thống kê dùng để khảo sát về năng suất, sản 
lượng nông sản, điều tra về dân số, vectơ dùng để biểu diễn về lực, về 
hướng...Bên cạnh đó việc ứng dụng toán học vào thực tiễn còn giúp HS rèn 
luyện các kĩ năng như giải toán, vận dụng môn Toán vào các môn học khác, 
sử dụng toán học trong cuộc sống... 
HS ở các tỉnh vùng núi với mặt bằng năng lực trí tuệ còn hạn chế, 
không đồng đều thì việc liên hệ toán học với thực tiễn, đặc biệt là liên hệ toán 
học với thực tiễn ở địa phương sẽ làm cho HS dễ dàng tiếp cận, làm chủ tri 
thức, rèn luyện kỹ năng, phương pháp giải toán, phát triển tư duy, tăng cường 
hứng thú học tập. Những tình huống áp dụng toán học vào thực tiễn sẽ làm 
cho HS thấy được lợi ích của môn Toán, thấy được cái hay, cái đẹp của môn 
Toán, làm cho các em tích cực và tự giác học tập. 
Ngoài ra học sinh cần được rèn luyện về khả năng ghi nhớ, cách khái 
quát và tổng hợp kiến thức. Một trong những cách ghi nhớ ưu việt nhất hiện 
nay đó là sử dụng sơ đồ tư duy, việc sử dụng sơ đồ tư duy sẽ làm cho kiến 
thức môn Toán trở nên ngắn gọn, sinh động hơn. 
b. Kĩ năng 
- Liên hệ Toán học với thực tiễn. 
 3 
- Kỹ năng tổng hợp và ghi nhớ bằng sơ đồ tư duy 
c. Thái độ 
- Có thái độ nghiêm túc trong học tập và rèn luyện. 
- Biết cách liên hệ Toán học với thực tiễn đời sống. 
3. Hoạt động dạy học và tiến trình dạy học 
Hoạt động dạy học có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức khác 
nhau như: thiết kế các tình huống dạy học trên lớp, phân chia các nhóm HS và 
dưới sự hướng dẫn của GV hoàn thành các sơ đồ tư duy theo từng chương, 
từng bài và nộp lại để kiểm tra và chấm điểm. Để thực hiện được các hình 
thức dạy học trên đòi hỏi GV và HS đều phải có sự sáng tạo tìm tòi, tự học tự 
nâng cao trình độ, mặc dù sử dụng phương pháp nào trong dạy học thì người 
dạy và học cần phải xác định rõ mục tiêu, nội dung của bài học. Sau đây là 
một số ví dụ về việc tăng cường các yếu tố trực quan trong dạy học mà tôi đã 
thiết kế: 
Ví dụ 1: Dạy học mệnh đề 
GV cho HS quan sát hình ảnh và trả lời câu hỏi 
Hình 1 Hình 2 Hình 3 
(Trồng thuốc lá) (Dệt thổ cẩm) (Nghề rèn) 
(?) Xét tính đúng sai của mệnh đề sau: A= “Cao Bằng có nhiều nghề 
truyền thống”. 
 4 
 Hình 4 Hình 5 Hình 6 
 (Dân tộc Tày) (Dân tộc Dao đỏ) (Dân tộc H’ mông) 
 Hình 7 Hình 8 Hình 9 
 (Dân tộc Dao tiền) (Dân tộc Dao trắng) (Dân tộc Nùng) 
(?) Xét tính đúng sai của mệnh đề: B = “Cao Bằng có nhiều đồng bào 
các dân tộc thiểu số cùng sinh sống”. 
 Hình 10 Hình 11 Hình 12 
(Suối Lê-nin-Pác Bó) (Thác Bản Giốc) (Hồ Thang Hen) 
(?) Xét tính đúng sai của mệnh đề: C = “Cao Bằng có nhiều danh lam 
thắng cảnh và khu di tích lịch sử”. 
 5 
 Hình 13 Hình 14 Hình 15 
 (Hạt dẻ) (Phở chua) (Lạp sườn và thịt xông khói) 
(?) Xét tính đúng sai của mệnh đề: D = “Hạt dẻ, phở chua, lạp sườn và 
thịt xông khói là các món đặc sản của Cao Bằng”. 
 Ví dụ 2: Dạy học các phép toán tập hợp 
GV nêu bài toán: Nhà A Pá có các vật dụng trong các hình sau: 
 Hình 16 Hình 17 Hình 18 Hình 19 
 (Cối giã gạo) (Chum đựng nước) (Võng) (Lưỡi cày) 
Hình 20 Hình 21 Hình 22 Hình 23 
(Cối xay) (Mâm, bát) (Cái bừa) (Hom, giỏ) 
Nhà A Sử có các vật dụng trong những hình sau: 
 6 
 Hình 24 Hình 25 Hình 26 Hình 27 
 (Dao) (Măng ớt) (Cối xay) (Chum đựng nước) 
 Hình 28 Hình 29 
 (Võng) (Mâm, bát) 
a) Nêu những vật dụng mà cả nhà A Pá và A Sử đều có. 
b) Nêu những vật dụng mà cả nhà A Pá hoặc A Sử có. 
c) Nêu những vật dụng mà nhà A Pá có nhưng nhà A Sử không có. 
Ví dụ 3: Khi dạy học về hàm số bậc hai có thể gợi động cơ mở đầu từ 
thực tiễn như sau: 
GV cho HS quan sát những hình ảnh thực tế sau đó yêu cầu HS nhận 
xét hình ảnh cổng trại, các tia nước, chảo vệ tinh có hình dạng gì? 
HS: Các hình ảnh trên có hình dạng là đường parabol. 
GV: Hình ảnh về đường parabol có rất nhiều trong thực tế, mỗi parabol 
chính là đồ thị của một hàm số bậc hai nào đó. Vậy thế nào là hàm số bậc hai? 
 7 
Sự biến thiên và đồ thị của nó như thế nào? Chúng ta sẽ cùng trả lời những 
câu hỏi đó qua bài: “Hàm số bậc hai”. 
Ví dụ 4: Khi dạy học về elip GV có thể gợi động cơ mở đầu từ thực tiễn 
như sau: 
GV cho HS quan sát những hình ảnh thực tế và cho HọC SINH nhận xét 
về hình dạng của đấu trường La Mã, tòa tháp, quỹ đạo của các hành tinh khi 
chuyển động xung quanh mặt trời có hình dạng gì? 
HS: Những hình ảnh trên có hình dạng của một elip. 
GV: Vậy trong toán học đường elip được định nghĩa như thế nào? Nó 
có những tính chất gì? Làm sao để vẽ được một đường elip? Chúng ta sẽ cùng 
trả lời các câu hỏi đó qua bài: “Phương trình đường elip”. 
Ví dụ 5: Khi dạy học về phương trình đường tròn GV có thể gợi động 
cơ mở đầu từ thực tiễn như sau: 
GV cho HS quan sát hình ảnh về ruộng bậc thang của người Inca cổ và 
quan sát hình ảnh cọn nước của đồng bào dân tộc, những hình ảnh đó gợi cho 
HS hình ảnh của đường tròn. Sau đó có thể cho HS đưa ví dụ về hình ảnh 
đường tròn trong thực tế. 
 8 
GV đặt vấn đề: Nếu biết tọa độ tâm và bán kính thì phương trình đường 
tròn có dạng như thế nào? Có bao nhiêu dạng phương trình đường tròn? Chúng 
ta sẽ cùng nghiên cứu những vấn đề đó qua bài: “Phương trình đường tròn”. 
Ví dụ 5: Khi muốn khắc sâu, củng cố kiến thức của từng bài, từng 
chương GV có thể sử dụng sơ đồ tư duy để củng cố, giúp cho học sinh có khái 
quát hóa kiến thức, rèn luyện tư duy sáng tạo. Sau đây là một vài sơ đồ tư duy 
đã được sử dụng trong quá trình dạy học: 
 9 
 10 
Trên đây là một số ví dụ về việc tăng cường yếu tố trực quan trong dạy 
học toán 10. Tuy nhiên còn rất nhiều nội dung khác trong chương trình Toán 
THPT nói chung mà GV có thể khai thác các yếu tố trực quan hay sử dụng sơ 
đồ tư duy để rèn luyện tư duy sáng tạo và khả năng ghi nhớ, tổng hợp kiến 
thức cho HS. 
4. Các sản phẩm của HS. 
Với việc tăng cường các yếu tố trực quan trong dạy học Toán đa số HS 
cảm thấy hứng thú hơn với môn Toán, hăng hái tham gia xây dựng bài, 100% 
học sinh biết vẽ sơ đồ tư duy theo từng bài và từng chương. Sau đây là một số 
sản phẩm của HS: 
 11 
 12 
 13 
 14 
 15 
 16 
5. Ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng thiết bị trong dạy học Toán 
Để tăng cường các yếu tố trực quan trong dạy học Toán thì việc ứng 
dụng công nghệ thông tin và sử dụng các thiết bị hỗ trợ là rất cần thiết như: sử 
dụng máy tính, máy chiếu, tranh, ảnh, bảng phụ...Ngoài ra khi sử dụng sơ đồ 
tư duy trong dạy học GV có thể sử dụng một phần mềm hỗ trợ để vẽ sơ đồ tư 
duy đó là phần mềm iMindMap. 
Trên đây là một biện pháp dạy học đã được Tôi thực hiện trong học kì 
vừa qua chắc chắn sẽ còn rất nhiều thiếu xót, nhưng Tôi đã mạnh dạn đưa ra 
để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo và rất mong nhận được sự đóng góp 
ý kiến từ bạn đọc. Xin trân trọng cảm ơn! 
 Cao Bằng, ngày 19 tháng 2 năm 2013 
 Người viết 
 Đàm Thu Chung 
 17 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfTham luan mon toan truong Be Van Dan.pdf