AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
I.Giới thiệu:
1.Tác giả:
-Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh 1937 tại thành phố Huế, quê ở Quảng Trị.
-Cuộc đời ông gắn bó sâu sắc với Huế : học trung học và đại học ở Huế, dạy học ở trường Quốc học Huế, tham gia phong trào CM tại Huế,tham gia kháng chiến chống Mỹ ở Huế.
-Tác phẩm : Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lủa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1986), Hoa trái quanh tôi (1995), Bản di chúc của “Cỏ lau” (1997), Ngọn núi ảo ảnh (1999), Miền gái đẹp (2001); thơ : Những dấu chân qua thành phố (1976), Người hái phù dung (1992).
-Là 1 trí thức yêu nước, 1 nhà văn gắn bó mật thiết với xứ Huế, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, có sở trường về tùy bút, bút kí , có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình với những liên tưởng mạnh mẽ và 1 lối hành văn mê đắm, trong sang tác.
- Phong cách nghệ thuật:
AI Đà ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG I.Giới thiệu: 1.Tác giả: -Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh 1937 tại thành phố Huế, quê ở Quảng Trị. -Cuộc đời ông gắn bó sâu sắc với Huế : học trung học và đại học ở Huế, dạy học ở trường Quốc học Huế, tham gia phong trào CM tại Huế,tham gia kháng chiến chống Mỹ ở Huế. -Tác phẩm : Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lủa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1986), Hoa trái quanh tôi (1995), Bản di chúc của “Cỏ lau” (1997), Ngọn núi ảo ảnh (1999), Miền gái đẹp (2001); thơ : Những dấu chân qua thành phố (1976), Người hái phù dung (1992). -Là 1 trí thức yêu nước, 1 nhà văn gắn bó mật thiết với xứ Huế, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, có sở trường về tùy bút, bút kí , có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình với những liên tưởng mạnh mẽ và 1 lối hành văn mê đắm, trong sang tác. - Phong cách nghệ thuật: +Là cây bút uyên bác, giàu chất trí tuệ. +Tài hoa, trí tưởng tượng phong phú lãng mạn đậm chất thơ. +Lối viết hướng nội, xúc tích, có chiều sâu văn hóa, cảm hứng nhân văn. 2.Xuất xứ: -Ai đã đặt tên cho dòng sông là bài bút kí đặc sắc được viết tại Huế vào 4/1/1981.Sau đó được in trong tập sách cùng tên. -Bài bút kí có 3 phần. Đoạn trích là phần thứ nhất. ->Là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại và văn phong của Hoàng Phủ Ngọc Tường. 3.Chủ đề: -Bằng một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế với một vốn văn hóa phong phú về Huế, một tình cảm tha thiết đối với Huế, qua bài bút kí, tác giả đã ca ngợi dòng sông Hương và rộng hơn là vùng đất cố đô Huế đẹp thơ mộng.Ca ngợi lịch sử vẻ vang của Huế,ca ngợi văn hóa và tâm hồn người Huế. 4.Bố cục: -Đoạn 1: từ đầu -> quê hương xứ sở: thủy trình của Hương Giang. +S.Hương ở thượng lưu ( từ đầu ->chân núi Kim Phụng) +S.Hương ở ngoại vi thành phố Huế ( phải nhiều thế kỉ qua -> bát ngát tiếng gà ) +S.Hương giữa long thành phố Huế ( từ đấy -> quê hương xứ sở ) -Đoạn 2: còn lại: sông Hương của lịch sử cuộc đời và thi ca. ->Cảm nhận sông Hương theo chiều dài địa lí, cách kết cấu tương ứng với từng khúc sông trong hành trình từ thượng nguồn đi tìm thành phố tình yêu. II.Phân tích: 1.Nhan đề: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Bài kí mở đầu và kết luận bằng một câu hỏi:”Ai đã đặt tên cho dòng sông?” -Mang ý nghĩa hỏi: chính nội dung bài kí là câu trả lời, một câu trả lời dài ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông có cái tên rất đẹp rất phù hợp với nó – sông Hương. -Mang tính chất biểu cảm: +Là cái cớ để nhà văn đi vào miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông Hương gắn với mảnh đất cố đô cổ kính tươi đẹp. +Thể hiện tình cảm ngỡ ngàng, ngưỡng mộ, thái độ trân trọng, ngợi ca của tác giả đối với dòng sông Hương, thành phố Huế than yêu. Vì quá yêu mà bật thành câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. 2.Thủy trình của Hương Giang: 2.1.Sông Hương ở thượng lưu: 2.1.1.Sông Hương – bản trường ca của rừng già: - Nơi khởi nguồn của dòng chảy con sông – sông Hương gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, nó toát lên vẻ đẹp vừa hung tráng vừa trữ tình: “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, nó cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa nhũng dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. - >Sự hợp âm của những nốt bổng, nốt trầm để mãi ngân nga, vang vọng giữa đại ngàn của Trường Sơn. 2.1.2.Sông Hương – cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại: -Đây là 1 liên tưởng thú vị độc đáo: ví s.Hương như những cô gái Di-gan. + Nhân hóa con sông khiến nó như một con người có cá tính,có tâm hồn:”rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” +”Cũng chính rừng già nơi đây đã chế ngự sức mạnh bản năng của người con gái sông Hương”. -> Khắc họa tạo ấn tượng sâu đậm,mạnh mẽ về vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại nhưng cũng rất tình tứ của con sông. 2.1.3.Sông Hương – người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở: -Khi ra khỏi rừng già: +”Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng.” +”Mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. - tác giả đã “ghi công” sông Hương như một “đấng sáng tạo” góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng văn hóa xứ sở.Có thể nói không có sông Hương thì khó có thể có văn hóa Huế ngày nay. - Tuy nhiên dường như sông Hương “không muốn bộc lộ” công lao to lớn ấy. -> Đó là chiều sâu vẻ đẹp và là nét tính cách đáng trân trọng của dòng sông này. 2.2.Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế: Trong cảm nghĩ của nhà văn: 2.2.1.Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế giống như người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức: -Sông Hương tìm đến Huế: +”chuyển dòng một cách liên tục,vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. +”qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đôt ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía Đông Bắc ôm lấy chân đồi Thiên Mụ,xuôi dần về Huế”. +có lúc sông Hương “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. ->Như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu sắc cổ tích, sông Hương hiện lên với một vóc dáng mới, sức sống mới đầy khao khát và lãng mạn. 2.2.2.Vẻ đẹp trầm mặc “như triết lí, như cổ thi” của sông Hương: +đến vùng rừng thông u tịch, lăng tẩm của vua chúa triều Nguyễn: dòng sông mang vẻ đẹp cổ kính trầm mặc như triết lí như cổ thi. +tới ngoại ô Kim Long: vẻ đẹp tươi vui. ->Dòng sông nép mình bên giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong long những rừng thông u tịch chảy bên những dj sản văn hóa, sông Hương như khoát lên mình tấm áo trầm mặc mang triết lí cổ thi của người xưa. 2.3.Sông Hương giữa long thành phố Huế: 2.3.1.Sông Hương – “điêu slow tình cảm dành riêng cho Huế”: -Sông Hương và Huế hòa vào làm một, sông Hương làm nên vẻ mộng mơ của Huế, Huế làm nên vẻ trầm tư sâu lắng của sông Hương. -Sông Hương giảm hẳn lưu tốc, xuôi đi thật chậm.yên tĩnh, khát vọng được gắn bó, lưu lại với mảnh đất nơi đây. +”những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. +tác giả còn liên tưởng với con sông Nêva băng băng lướt qua trước cung điện Pê-tec-bua cũ để ra bể Ban-tích. Lưu tốc của con sông này nhanh đến mức “không kịp cho lũ hải âu nói điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo”. -Tuy nhiên tất cả sự lí giải đó vẫn chưa lột tả hết cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường về sông Hương khi nó chảy giữa lòng thành phố. Vì thế ông đã đem đến một lí giải khác hết sức độc đáo và thú vị - đó là cách lí giải bằng trái tim : sông Hương chảy chậm, điệu chảy lửng lờ vì nó quá yêu thành phố của mình, nó muốn được nhín ngắm nhiều hơn nữa thành phố than thương trước khi phải rời xa. 2.3.2.Sông Hương – người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya: - Nét đẹp văn hóa gắn liền với dòng sông thơ mộng này là những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế. -Theo tác giả thì toàn bộ nền âm nhạc ấy chỉ thật sự là nó khi “sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, của một tiếng nước bân âm của những mái chèo khuya” - Câu chuyện về một nghệ nhân già, chơi đàn hết thế kỉ khi nghe người con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời” đã nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách của Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh” (một điệu nhạc cổ Huế). ->Khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa sông Hương và nền âm nhạc cổ điển Huế. Đó là vẻ đẹp hiếm thấy ở bất kì dòng sông nào trong nước cũng như trên thế giới. 2.3.3.Sông Hương – người tình dịu dàng và thủy chung: +Rời khỏi kinh thành, sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi. +Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu một lần cuối ->Nỗi vấn vương, lẳng lơ, kín đáo của một người tình thủy chung và chí tình như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước lúc đi xa..”Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ,” *Nhận xét: Đoạn văn cho thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả sông Hương ở nhiều không gian, thời gian khác nhau, ở mỗi góc độ nhà văn đều có cảm nghĩ sâu sắc khá mới mẻ về dòng sông Hương. Qua đó, ta thấy được tình cảm yêu mến gắn bó tha thiết, niềm tự hào và thái độ trân trọng giữ gìn của nhà văn đối với dòng sông quê hương mình. 3.Sông Hương của lịch sử, cuộc đời và thi ca: 3.1.Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc: -Là một dòng sông anh hùng +Từ xa xưa: là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước, của các Vua Hùng. +Thoi trung đại: dòng Linh Giang đã chiến đấu oai hùng bảo vệ biên giới phía Nam to quoc Dai Viet. +Ve vang soi bong kinh thanh Phu Xuan cua nguoi anh hung Nguyen Hue. + -Thoi chong Phap: +Song het lich su bi trang voi mau cua cac anh hung khoi nghia trong phong trao Can Vuong. +Di vao thoi dai CMT8 voi nhung chien cong rung chuyen. -Thoi chong My: +Gop minh vao chien dich Mua xuan 1968 Mau Than. *Song Huong cung voi thanh pho Hue cung chiu nhieu dau thuong mat mat ->Song Huong la dong song co be day lich su nhu mot nguoi con gai anh hung, khi to quoc goi no tu biet hien doi minh lam chien cong. Song Huong la dong song cua su thi viet giua mau co la xanh biec. ->Su thi ma tru tinh, ban anh hung ca cung la ban tinh ca diu dang tuoi mat. Do la net doc dao cua xu Hue, cua song Huong duoc tac gia kham pha va khac hoa tu goc do lich su. 3.2.Song Huong voi cuoc doi va thi ca : -Trong doi thuong, song Huong mang ve dep gian di cua nguoi con gai diu dang. -Vi ve dep doc dao va da dang, vi con song khong bao gio tu lap lai minh, no luon co ve dep moi -> co kha nang khoi nguon cam hung cho van nhan nghe si dac biet la cac nha tho : Cao Ba Quat, Ba Huyen Thanh Quan, To Huu. + La ve dep mo mang ‘ Dong dong trang la cay xanh ’ trong tho Tan Da. +Ve dep hung trang ‘ nhu kiem dung troi xanh ’ cua Cao Ba Quat. +La noi quan hoai van co trong tho Ba Huyen Thanh Quan. +La suc manh phuc sinh tam hon trong tho To Huu. -Dong song gan voi nhung phong tuc, voi ve dep tam hon cua nguoi dan xu Hue. +Man suong khoi tren song Huong = mau ao dien luc, mot sac ao cuoi cua co dau tre trong tiet suong giang.. +Ve tram mac sau lang cua song Huong cung nhu mot net rieng trong tam hon cua nguoi dan xu Hue : ‘ rat diu dang va rat tram tu.’ III.Ket luan : -Bai but ki noi chung va doan trich noi rieng la ket tinh va tong hoa dep de cua mot tinh yeu say dam doi voi dong song, voi que huong xu so va tai nang cua mot cay but giau tri tue, am hieu sau rong ve van hoa, lich su, dia li va van chuong cung mot suc lien tuong, tuong tuong doc dao, phong phu. -Suc hap dan cua bai but ki ‘Ai da dat ten cho dong song’ truoc het den tu ngoi but tai hoa cua Hoang Phu Ngoc Tuong. Nha van da sang tao duoc nhung trang van dep duoc det ... , nhưng cũng có lúc lại 'dịu dàng, đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng'.Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một 'cô gái Digan, phóng khoáng và man dại', bởi rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ , một tâm hồn tự do và trong sáng.Nghệ thuật: so sánh, tu từ, ẩn dụ và nhân hóa. 3. Sông Hương khi về đến ngoại vi thành phố 'Sắc đẹp dịu dàng , trí tuệ , người mẹ phù sa của một vùng văn hóa ,xứ sở', dòng sông duy nhất chỉ đi qua thành phố Huế.Với vốn hiểu biết sâu sắc về địa lí, văn hóa, lịc sử, tác giả miêu tả dòng sông thật sinh động vói cảm nhận mang nhiều khác biệt. Sông Hương như 'người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại (hình ảnh thơ mộng gợi liên tưởng cổ tích đến nàng công chúa ngủ trong rừng), Dòng sông hiện lên với 'khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm'.Lưu vực êm ả, thanh bình, vui tươi_giữa những bãi bờ xanh biếc , nhiều màu sắc trầm mặc, triết lí. Những lăng tẩm với 'giấc ngủ nghìn năm của vua chúa đựoc phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm lan tỏa khắp cả một vùng thượng lưu'. Vói những quan sát tinh tế, ngôn ngữ giàu hình tượng, so sánh, ẩn dụ , sông Hương trong dư vang Trường Sơn, dòng sông mềm như tấm lụa'. 'Những dãy đồi sừng sững như thành quách, với những đỉnh cao đột khởi :Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo', những ngọn đồi đã tạo ra nững mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời 'sớm xanh, trưa vàng ,chiều tím' rất lạ và đặc trưng như người Huề từng nhận xét. Sự thay đổi tính cách của người con gái sông Hương đưa ta đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, một cô gái Digan,man dại và phóng khoáng đã trở nên dịu dàng, e lệ, như 'người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức', 'người mẹ phù sa của cả một vùng văn hóa xứ sở'. Thoảng đâu đó, mơ hồ mà vang vọng trong tâm thức Huế là tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiến gà từ xóm làng trung du bát ngát,... ===== Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bút kí đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế. Trong sách Tuyển chọn & giới thiệu Ngữ văn...[3] có đoạn phân tích, tóm tắt như sau: Vẻ đẹp dòng sông được phát hiện rất đa dạng. Có lúc trữ tình êm ả, hiền hòa như “một thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng”; có lúc phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già”. Có khi dịu dàng và trí tuệ như “người mẹ phù sa”; có khi biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; hoặc khi thì vui tươi, khi thì như một mặt hồ yên tĩnh v.v...Tất cả được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hóa phong phú và một vốn ngôn từ giàu có và đậm chất thơ của tác giả. Đọc những trang viết về Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường (trong đó có bài Ai đã đặt tên cho dòng sông?), nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, đã nhận xét: Trích: Nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu Huế và hiểu Huế, thì đó là một lẽ đương nhiên. Tôi muốn đi xa hơn, tìm một căn nguyên thấm kín để cắt nghĩa cho sự thành công mỹ mãn của những trang viết ấy: phải chăng ở đây đã có một sự hòa hợp, tương giao, linh ứng giữa cảnh sắc Huế, lịch sử Huế, văn hóa Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung động, nhạy cảm, tinh tế. Phải là sự tương giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài hoa không dễ một lần thứ hai viết được như thế. Ngỡ như không khác được: viết về sông Hương là phải vậy, viết về “văn hóa vườn” ở Huế là phải vậy. Đó là những áng văn, câu chữ được chọn lựa cân nhắc kỹ càng, vì hình ảnh được sáng tạo đẹp đẽ, vì cảm xúc phong phú bất ngờ, mới mẻ... [4] Và theo Lê Uyển Văn, thì: Trích: Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người, những tài nữ đánh đàn, những người dân Châu Hóa lái thuyền xuôi ngược, những người con anh dũng đã hi sinh, những Nguyễn Du, những Bà huyện Thanh Quan, những Tố Hữu...đã viết thơ trên dòng chảy long lanh in bóng mây trời. Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương cũng là quá trình dâng tặng, khám phá và hoàn thiện chính mình Ai đó đã từng viết “ Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng, “một dòng sông để thương, để nhớ” của mỗi người rất khác nhau. Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng; nếu Hoàng Cầm là nỗi nhớ của ta khi ngang qua “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh”; nếu Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày thao thiết chở phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng sông Hương đi vào trái tim người đọc với “Ai đã đặt tên cho dòng sông?.”... Có một huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau thơm ở Huế: Vì yêu quý con sông xinh đẹp, người dân hai bên bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm tho. Phải chăng đó là cách lý giải tên của Hương Giang – con sông gắn liền với Huế, gắn liền với tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường? Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết năm 1981, khi tác giả đã sống bên bờ sông Hương, sống trong lòng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với quê hương cứ lớn lên từng ngày và nó hiện hữu ở mọi thời gian, mọi không gian. Khi tác giả ngồi đọc truyện Kiều giữa mùa thu, trong một khu vườn xưa cổ, nơi có những loài hoa đang nở, trái cây đang chín, yên tĩnh và khoáng đạt - khu vườn tọa lạc trên vùng đất mà Nguyễn Du từng sống nên thiên nhiên của “mảnh đất Kinh- xưa” đã in bóng trong thơ Nguyễn, ngược lại sông Hương và Huế đã gợi cho tác giả hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng: Kim- Kiều. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một dòng chảy nào đáng yêu đến thế, sông Hương đến với Huế qua cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang hình ảnh một cô gái mỹ miều đến với tình yêu. Hãy ngắm nhìn nàng trước khi gặp Huế, đó là “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” “bản lĩnh và gan dạ” có một tâm hồn “ tự do và trong sáng”, đó là hình ảnh “ bản trường ca của rừng già” rầm rộ và mãnh liệt nhưng cũng có lúc “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, nàng đã chế ngự sức mạnh bản năng của mình để đến lúc ra khỏi rừng già sẽ trở nên dịu dàng và trí tuệ. Để đến với Huế, sông Hương phải băng qua một hành trình, phải chuyển dòng liên tục, như một cuộc kiếm tìm thiết tha và rạo rực, vô vàn địa danh mà dòng nước ấy đã trôi qua Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ người con gái Di-gan ấy đã đột ngột uốn mình theo một đường cong thật mềm nhưng “vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm”, nàng vẫn còn mang một vẻ buồn trầm mặc như triết lý, như cổ thi cho đến khi gặp được tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng “mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu”- Cái phút ban đầu để đến với “người tình” của sông Hương như thế đấy! Nàng đã tự làm mới mình để hiến tặng những gì đẹp nhất cho người yêu. Sông Hương - dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất - đã rời cuộc sống hoang dã của rừng để đến với Huế và chỉ Huế mà thôi, nàng như “sông Xen của Paris, sông Ðanuýp của Buđapet” chảy trong lòng thành phố yêu quý của mình nhưng khác ở chỗ nàng đẹp một cách huyền hồ như đang che khuôn mặt diễm kiều bằng tấm voan sương khói, nàng trôi lặng lẽ với nghìn ánh hoa đăng vào hội rằm tháng 7 bồng bềnh chao nhẹ trên mặt nước như vương vấn một nỗi lòng . Tôi chợt nhớ đến một câu nói “có những dòng tình cảm, rất sâu nên rất đỗi lặng lờ”, dòng chảy êm đềm của sông Hương hay chính là tình yêu sâu lắng mà nàng dâng tặng cho thành phố Huế? Vẻ đẹp của sông Hương còn là vẻ đẹp của một nền văn hóa, vẻ đẹp của người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya ,toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh sôi trên mặt sông này và hơn thế khắp lưu vực sông còn vang vọng những điệu hò dân dã, những điệu hò thấm đẫm tấm chung tình, thấm đẫm lời thề của sông Hương trước phút chia tay với Huế mà trôi về biển cả. Nhưng chẳng phải bao giờ sông Hương cũng là người con gái đằm thắm ,dịu dàng, mềm mại trong lòng Huế, đã có một thời sông Hương “mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam” của Tổ quốc, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, “dòng sông của thời gian ngân vang", của lịch sử viết giữa màu cỏ xanh, lá biếc Sông Hương được nhìn như một người con gái đến với tình yêu, dâng tặng những vẻ đẹp mà mình có được cho người yêu, đắm mình trong tình yêu để khám phá và hoàn thiện bản thân. Từ một dòng sông hoang dại, bí ẩn, nàng đã trở thành một sông Hương rất mực dịu dàng, rất mực tài hoa, rất mực kiên cường, rất mực hy sinh Cho nên, từ khi có được sông Hương, Huế - chàng Kim của nàng- cũng có nhiều thay đổi. Từ hoang sơ với “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” hay kiêu hãnh âm u với những lăng tẩm đền đài đồ sộ, đã hóa thành vẻ đẹp cổ kính mà thơ mộng, khiến người con của Huế dù đến Pari, Buđapét hay Leningrad vẫn đau đáu nhớ về một thành phố với nguyên dạng đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Huế càng lung linh hơn khi sông Hương chở trong lòng Huế những nét đặc thù của hội Hoa đăng, của ca Huế, man mác tiếng rơi của những mái chèo khuya. Có sông Hương, Huế trở thành biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, Huế chiến đấu oanh liệt bảo về biên giới phía Nam của Đại Việt, Huế là kinh thành của người anh hùng Nguyễn Huệ, Huế cùng sông Hương đi vào Cách mạng tháng 8 bằng những chiến công rung chuyển. Huế đã cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc trong cuộc trường chinh máu lửa bên cạnh sông Hương - dòng sông của sử thi đã tự hiến đời mình làm một chiến công. Tình yêu của sông Hương và Huế - một tình yêu lãng mạn và âm vang sức sống, một tình yêu như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, bản hợp xướng diệu kỳ giữa thi ca và âm nhạc. Tình yêu ấy được vun đắp bởi ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, bạn con thân yêu của Huế, yêu Huế, yêu sông Hương, nhìn ngắm sông Hương khi gần kề để phát hiện ra dòng sông ấy “đang đổi sắc không ngừng dưới ánh nắng và mùi hương của hoa trái trong vườn”, lúc xa xôi gần nửa vòng trái đất, nhìn Nê va để sông Hương tìm về trong niềm nhớ. Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người, những tài nữ đánh đàn, những người dân Châu Hóa lái thuyền xuôi ngược, những người con anh dũng đã hi sinh, những Nguyễn Du, những bà huyện Thanh Quan, những Tố Hữuđã viết thơ trên dòng chảy long lanh in bóng mây trời. Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương cũng là quá trình dâng tặng, khám phá và hoàn thiện chính mình. Tuy nhiên, vì sông Hương là hóa thân của huyền thoại nên câu hỏi bâng khuâng của một người Hà Nội khi lặng lẽ ngắm nhìn dòng nước : “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” vẫn là một câu hỏi lửng lơ chưa có lời giải đáp , câu hỏi đã thành tên cho một thiên bút ký tuyệt vời
Tài liệu đính kèm: