Giáo án tự chọn Ngữ văn 12 - Giáo viên : Phạm Thị Kim Dung

Giáo án tự chọn Ngữ văn 12 - Giáo viên : Phạm Thị Kim Dung

HỌC KÌ I

Tuần 1; Tiết 1

VĂN NGHỊ LUẬN

Bài văn là đơn vị ngôn từ gồm nhiều câu, nhiều đoạn, mang một nội dung nhất định trong một hình thức nhất định, thông báo đến người đọc nhiều điều mà người viết muốn truyền đạt.

- Bài văn hay  truyền đạt đầy đủ ý và tình.

- Bài văn không hay  ngược lại.

1/ khái niệm văn nghị luận:

Văn nghị luận là dùng ý kiến lí lẽ của mình để bàn bạc, để thuyết phục người khác về một vấn đề nào đó. Để thuyết phục được ý kiến phải đúng và thái độ phải đúng. Có thể gọi ý kiến là lý còn thái độ là tình. Có khi ý kiến đúng mà thái độ không đúng thì cũng kém giá trị và tác dụng. Có ý kiến đúng và thái độ đúng rồi lại phải có cách nghị luận hợp lý nữa.

2/ Yêu cầu bài văn nghị luận:

- Phải đúng hướng.

- Phải trật tự.

- Phải mạch lạc.

- Phải trong sáng.

- Phải sinh động, hấp dẫn, sáng tạo.

 

doc 32 trang Người đăng hien301 Lượt xem 1145Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án tự chọn Ngữ văn 12 - Giáo viên : Phạm Thị Kim Dung", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC KÌ I
Tuần 1; Tiết 1
VĂN NGHỊ LUẬN
Bài văn là đơn vị ngôn từ gồm nhiều câu, nhiều đoạn, mang một nội dung nhất định trong một hình thức nhất định, thông báo đến người đọc nhiều điều mà người viết muốn truyền đạt.
Bài văn hay à truyền đạt đầy đủ ý và tình.
Bài văn không hay à ngược lại.
1/ khái niệm văn nghị luận:
Văn nghị luận là dùng ý kiến lí lẽ của mình để bàn bạc, để thuyết phục người khác về một vấn đề nào đó. Để thuyết phục được ý kiến phải đúng và thái độ phải đúng. Có thể gọi ý kiến là lý còn thái độ là tình. Có khi ý kiến đúng mà thái độ không đúng thì cũng kém giá trị và tác dụng. Có ý kiến đúng và thái độ đúng rồi lại phải có cách nghị luận hợp lý nữa.
2/ Yêu cầu bài văn nghị luận: 
- Phải đúng hướng.
- Phải trật tự.
- Phải mạch lạc.
- Phải trong sáng.
- Phải sinh động, hấp dẫn, sáng tạo.
3/ Những thao tác chính của văn nghị luận.
1. Phân tích: 
Chia nhỏ ra. Khi nghị luận, phân tích là đm một ý kiến, một vấn đề lớn chia ra thành những ý kiến những vấn đề nhỏ, xem xét từng khía cạnh, từng bộ phận của vấn đề. Trong văn nghị luận, đã cần phân tích lại còn cần tổng hợp. Tổng hợp trong văn nghị luận là đem nhiều ý kiến nhiều vấn đề nhỏ, riêng, qui lại thành một ý kiến, một vấn đề lớn, chung. Không có tổng hợp thì phân tích sẽ tràn lan, tản mạn, lộn xộn. Không biết đến đâu là giới hạn, gặp đâu nói đó, nghĩ gì viết nấy thì không phải phân tích mà cũng không phải tổng hợp. Nghĩa là không phải nghị luận.
2. Giải thích, chứng minh, bình luận.
- Giải thích là đem vấn đề đó bàn kĩ ra, làm cho nó rõ ràng thêm đầy đủ hơn. Giải thích gắn liền với chứng minh. Giải thích là từ vấn đề mà nói rõ thêm. Còn chứng minh là đưa thêm sự kiện, dẫn chứng, lí lẽ mới làm cho sự giải thích càng thêm vững chắc. Giải thích làm cho vấn đề rõ ràng, còn chứng minh là làm cho giải thích thêm vững chắc. Chứng minh chính là khẳng định hoặc phủ định vấn đề.
- Chứng minh và giải thích thực hiện được một phần bình luận. Bình luận là bàn bạc, bày tỏ ý kiến của người viết đối với vần đề. Khi giải thích và chứng minh, người viết buộc phải xuất phát từ vấn đề đặt ra, phải đảm bảo tính khách quan trong nghị luận. Không được gán ghép ý chủ quan của mình cho vấn đề. Còn khi bình luận, người viết có thể nêu lên những nhận xét, những ý kiến, những phán đoán, những suy luận có tính chủ quan. Tuy nhiên, phải chủ quan trên sự thật từ giải thích - chứng minh.
3/ Các kiểu bài văn:
- Văn nghị luận: Nghị luận văn học và nghị luận xã hội.
- Văn thuyết minh.
- Văn tự sự.
- Văn miêu tả.
- Văn biểu cảm.
- Văn bản hành chính công vụ.
4/ Cách làm bài văn nghị luận:
a/ Tìm hiểu đề: theo 3 yêu cầu:
- Hình thức (thể loại).
- Nội dung (luận đề)à quan trọng nhất không được xác định sai.
- Tài liệu (dẫn chứng).
b/ Lập dàn bài:
- Mở bài: giới thiệu trọng tâm vấn đề cần nghị luận.
- Thân bài:
+ Luận điểm 1 (đoạn): luận cứ 1à luận chứng; luận cứ 2à luận chứng,..
+ Luận điểm 2 (đoạn): luận cứ 1à luận chứng; luận cứ 2à luận chứng,..
+ Luận điểm n
- Kết luận: Tổng hợp vấn đề nghị luận.
5/ Cách xây dựng đoạn: 
a/ Kết cầu của một đoạn: 
- Trật tự diễn dịch. (câu chủ đề đầu đoạn)
- Trật tự quy nạp (Câu chủ đề cuối đoạn)
- Trật tự vừa diễn dịch vừa quy nạp (câu chủ đề giữa đoạn)
- Trật tự song song.
b/ Cách viết đoạn:
- Viết đoạn chứng minh.
- Viết đoạn giải thích.
- Viết đoạn bình luận (kết hợp giải thích và chứng minh).
6/ Kiểu bài nghị luận văn học và nghị luận xã hội.
a/ Nghị luận văn học:
Là lối văn nghị luận mà nội dung là một vấn đề văn học.
- Nghị luận một tác phẩm văn học: nắm vững hoàn cảnh sáng tác, chủ đề tác phẩm, các chi tiết trong tác phẩm, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật.
+ Phân tích toàn tác phẩm tự sự: (nhân vật, tâm trạng)à tác giả muốn gởi gắm điều gì?
+ Phân tích đoạn trích tác phẩm tự sự:
+ Phân tích chi tiết, giá trị nghệ thuật, tình huống,.
- Phân tích tác phẩm thơ trữ tình: nắm vững hoàn cảnh sáng tác, chủ đề tác phẩm, các chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật.
+ Phân tích bài thơ.
+ Phân tích đoạn thơ.
+ Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình.
+ Phân tích Nghệ thuật thơ, ngôn ngữ,,
- Phân tích một tác giả văn học: nằm vững thời đại, quê hương, hoàn cảnh xuất thân, cuộc đời, tác phẩm, sự đóng góp của tác giả,..
- Phân tích một giai đoạn văn học, một xu hướng văn học hoặc một vấn đề lí luận văn học.
b/ Nghị luận xã hội:
Nghị luận xã hội đi vào bàn bạc các vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội: chính trị, đạo đức, lối sống,thường được thể hiện cô đọng trong các câu tục ngữ, danh ngôn hoặc 1 ý kiến, một nhận định tổng quát nào đó,.
* Nghị luận một tư tưởng đạo lý:
- Nắm được cách viết bài NL về 1 tư tưởng đạo lí, trước hết là kỹ năng tìm hiểu đề và lập dàn ý.
- Có ý thức và khả năng tiếp thu những quan niệm đúng đắn và phê phàn những quan niệm sai lầm về tư tưởng đạo lí.
+ Đề tài nghị luận về tư tưởng đạo lý vô cùng phong phú về các vấn đề nhận thức, tính cách, các quan hệ gia đình, quan hệ xã hội, cách ứng xử, những hành động của mỗi người trong cuộc sống... 
Nghị luận bàn về một tư tưởng đạo lý nhằm trình bày quan điểm, suy nghĩ của mình để thuyết phục người khác, đồng thời tự mình nâng cao nhận thức, rèn luyện phẩm chất theo vấn đề mình đang nghị luận. 
+ Các thao tác lập luận thường được sử dụng: giải thích, phn tích, chứng minh, so snh, bc bỏ , bình luận.
 + Nội dung của bài nghị luận tư tưởng, đạo lý
Giới thiệu, giải thích tư tưởng, đạo lý cần bàn bạc
Phân tích, đánh giá và chứng minh tính chất đúng đắn, đồng thời bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề tư tưởng , đạo lý được bàn luận.
Rút ra bài học nhận thức và hnàh động trong cuộc sống. 
Khi làm bài , cần nêu và phân tích các dẫn chứng trong lịch sử , trong đời sống. Cũng có thể lấy dẫn chứng văn học nhưng cần có mức độ để tránh lẫn lộn với kiểu bài nghị luận văn học. 
* Nghị luận về một hiện tượng xã hội:
- Người viết phải hiểu vấn đề đúng, sâu, nắm được bản chất vấn đề -> Tập hợp tư liệu chính xác, thuyết phục.
- Người viết phải thể hiện rõ quan điểm, thái độ của mình trước hiện tượng nghị luận -> chỉ ra đúng – sai, lợi - hại, nguyên nhân, cách khắc phục.
- Người viết giữ lập trường vững vàng trước mọi hiện tượng
- Diễn đạt trong sáng, có thể sử dụng phép tu từ, yếu tố biểu cảm và nêu cảm nghĩ riêng.
+ Cách làm bài nghị luận về hiện tượng đời sống
Tìm hiểu đề
 Lập dàn ý
+ Mở bài: giới thiệu hiện tượng cần bàn luận
+ Thân bài: 
Giải thích hiện tượng cần bàn bạc.
Phân tích được thực trạng vấn đề.
Phân tích, bình luận nguyên nhân dẫn đến thực trạng vấn đề.
Bình luận được hậu quả vấn đề - phê phán.
Đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề.
Suy nghĩ và hành động bản thân.
+ Kết bài: nêu phương hướng, suy nghĩ trước hiện tượng đời sống
Tuần 2; tiết 2
Thực hành luyện tập nghị luận về một tư tưởng đạo lí
Đề 1: Anh / chị nghĩ như thế nào về câu nói: “Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố” ( Trích Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm)
1/ Giải thích khái niệm của đề bài (câu nói)
+ Giông tố ở đây dùng để chỉ cảnh gian nan đầy thử thách hoặc việc xảy ra dữ dội .
+ Câu nói khẳng định: cuộc đời có thể trải qua nhiều gian nan nhưng chớ cúi đầu trước khó khăn, chớ đầu hàng thử thách, gian nan. ( Đây là vấn đề nghị luận)
2/ Giải thích, chứng minh vấn đề: Có thể triển khai các ý:
+ Cuộc sống nhiều gian nan, thử thách nhưng con người không khuất phục.
+ Gian nan, thử thách chính là môi trường tôi luyện con người.
3/ Khẳng đinh, bàn bạc mở rộng vấn đề:
+ Câu nói trên là tiếng nói của một lớp trẻ sinh ra và lớn lên trong thời đại đầy bão táp, sống thật đẹp và hào hùng.
+ Câu nói thể hiện một quan niệm nhân sinh tích cực : sống không sợ gian nan , thử thách , phải có nghị lực và bản lĩnh.
+ Câu nói gợi cho bản thân nhiều suy nghĩ: trong học tập, cuộc sống bản thân phải luôn có ý thức phấn đấu vươn lên. Bởi cuộc đời không phải con đường bằng phẳng mà đầy chông gai, mỗi lần vấp ngã không được chán nản bi quan mà phải biết đứng dậy vươn lên. Để có được điều này thì cần phải làm gì?
Đề 2: Trình bày một bài văn ngắn về hiểu biết của anh/chị ý nghĩa câu nói: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” Nguyễn Bá Học.
Ý nghĩa khái quát câu nói: khẳng định và nhấn mạnh yếu tố tinh thần và tư tưởng của con người đối với công việc. Khi tư tưởng thông suốt tinh thần vững vàng thì con người sẽ có quyết tâm cao, có ý chí mạnh mẽ để vượt qua khó khăn, thử thách trong cuộc sống cũng như trong công việc.
Bộc lộ ý kiến cá nhân về câu nói này và có những nhận xét đánh giá về tinh thần thái độ của thế hệ trẻ ngày nay khi giải quyết những vướn mắc khó khăn trong công việc và trong cuộc sống.
Tuần 3; tiết 3
Thực hành luyện tập bài Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh.
Câu 1: Nêu bố cục của bản tuyên ngôn độc lập?
Bản tuyên ngôn chia làm 3 đoạn:
- Đoạn 1: (từ đầu đến không ai chối cãi được): nêu nguyên lí chung của tuyên ngôn độc lập.
- Đoạn 2: (từ thế mà đến từ tay Pháp): tố cáo tội ác của Thực dân Pháp và khẳng định thực tế lịch sử: nhân dân ta nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Đoạn 3: còn lại: Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Câu 2: Việc trích dẫn Tuyên ngôn độc lập (1776) của nước Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (1791) của cách mạng Pháp trong phần mở đầu có ý nghĩa gì?
a) Mở đầu bản tuyên ngôn của nước Việt Nam, Bác lại dẫn lời trong hai bản tuyên ngôn của Mỹ và của Pháp. Nội dung những lời trích dẫn là khẳng định quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống và quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân. Đó là những quyền hiển nhiên, tất yếu và bất khả xâm phạm. Như vậy, cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn là quyền tự do, bình đẳng của con người. Hồ Chí Minh đã đứng trên quan điểm ấy mà đối thoại với bọn đế quốc về quyền dân tộc.
b) Trước hết, cách nói, cách viết của Bác vô cùng khéo léo: khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mỹ, người Pháp, hai bản tuyên ngôn đã từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng, văn hóa của những dân tộc ấy. 
c) Khéo léo mà vẫn rất kiên quyết vì qua đó để nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.
ý nghĩa : Bác đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau, ba bản tuyên ngôn ngang hàng nhau. Cách làm này của Bác đã đưa dân tộc ta đường hoàng bước lên vũ đài chính trị thế giới.
Mặt khác, Tuyên ngôn độc lập tuy không trực tiếp dẫn ra, nhưng lại gợi nhớ về một sự tiếp nối niềm tự hào, tư tưởng độc lập dân tộc của cha ông đã được khẳng định từ xa xưa, trong áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo.
d) Phần suy rộng ra : "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng. Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". 
+ Bác đã nâng quyền con người, quyền cá nhân thành quyền dân tộc. 
+ Đây là một đóng góp đầy ý nghĩa đối với tư tưởng giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: "Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ N ...  văn ngắn quan điểm của anh chị về ý kiến trên.
Nêu tác hại hậu quả của thái độ phủ nhận quay lưng lại với qua khứ.
Nhấn mạnh sự tiếp nối truyền thống, ý nghĩa lòng biết ơn. Ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay.
Suy nghĩ và hành động của bản thân, tu dưỡng đạo đức có ý thức nhớ về cội nguồn, có trách nhiệm với cộng đồng và bản thân.
Đề 3: Nhạc sĩ S. Gu nô người Pháp nói: Năm 20 tuổi tôi nói: “Tôi và Môda”, năm 30 tuổi tôi nói “Mô da và tôi”, năm 40 tuổi tôi nói: “chỉ có Mô da”. Hãy viết một bài văn ngắn trình bày ý kiến của anh chị về ý kiến trên.
Sự trưởng thành trong nhận thức, bài học và đức tính khiêm tốn của mỗi con người.
Nhận thức cuộc sống theo chiều dài của sự chiêm nghiệm, càng trải nghiệm trong cuộc sống, con người càng chín trắng hơn trong nhận thức.
Bài học về sự khiêm tốn, thận trọng và chín trắng, không nên chủ quan phiến diện khi đánh giá con người và đời sống, luôn tu dưỡng rèn luyện để trở thành con người toàn vẹn.
Đề 4: 
Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẽ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời.
Dựa vào những câu thơ trên anh/ chị hãy phát biểu một bài văn ngắn ý kiến của cá nhân về trách nhiệm của thế hệ thanh niên hiện nay với đất nước.
Đất nước kết tinh hóa thân trong mỗi con người; con người phải có tinh thần cống hiến có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương xứ sở.
Suy nghĩ của cá nhân về lời nhấn nhủ của câu thơ trên. Cần nêu ý kiến riêng của bản thân, có sự lý giải khác nhau nhưng cần phải logic và thuyết phục.
Đề 5: Bàn về giá trị của việc đọc sách M.Goski nói: “Mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ mà tôi bước lên tách khỏi con thú để lên tới gần con người”. Trình bày trong một bài văn ngắn ý liến của anh chị về câu nói trên.
Vai trò của sách trong cuộc sống, sách không chỉ cung cấp tri thức giúp con người hiểu biết mà sách còn giúp cho con người hoàn thiện nhân cách hướng cho con người vươn tới cái Chân - Thiện - Mĩ ( nhấn mạnh chức năng giáo dục của sách đối với con người).
Cần có ý thức yêu quí sách, hình thành thói quen đọc sách tu dưỡng và rèn luyện đạo đức để hoàn thiện mình.
Đề 6: Anh/chị hãy trình bày một bài văn ngắn suy nghĩ như thề nào về “Tiền tài và hạnh phúc”.
Trong thời đổi mới, nền kinh tế thị trường, các ngành ngề sản xuất kinh doanh phát triển nền kinh tế thị trường nước ta tăng trưởng mạnh, năm sau hơn năm trước. Đất nước trên đà đổi mới, ngày một thay đổi toàn diện. đời sống nhân dân ngày một khá hơn.
Trong bối cảnh ấy vấn đề tiền tài và hạnh phúc có nhiều ý nghĩa, tiền tài, tiền bạc, tiền của đều cùng chung một khái niệm. Ở đời tiền tài có khi mang lại hạnh phúc nhưng cũng có trường hợp chỉ mang lại sự đổ vỡ bất hạnh.
Tiền là thước đo giá trị và nhân phẩm. Nhưng tiền có mặt trái thật ghê gớm.
Tuần 26; tiết 26
Thực hành luyện tập bài Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu Quang Vũ
Câu 1: Qua đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, tìm hàm ý mà nhà viết kịch muốn gởi gắm?
+ Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba "ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy" với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:
"- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát".
+ Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ (Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải) 
- Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. 
- Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. 
+ Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.
+ Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận (cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cổ nghẹn lại" và "suýt nữa thì". Đó là cảm giác "xao xuyến" trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là "phàm". Đó là cái lần ông tát thằng con ông "tóe máu mồm máu mũi",). 
+ Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. 
+ Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: "Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,". 
+ Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. không chỉ đau khổ, hồn còn xấu hỗ trước những lời nói công khai của xác mà trước đó hồn đã cảm thấy mà không muốn nói ra, nhận thấy mà không muốn thừa nhận.
@ Hàm ý:
- Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hóa.
- Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị , sẽ thắng thế, sẻ lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quí trong con người. 
Câu 2: Qua lớp kịch hồn Trương Ba và gia đình (vợ, con, cháu) anh chị nhận thấy nguyên nhân nào đã khiến cho người thân của Trương Ba và cả chính Trương Ba rơi vào bất ổn và phải chịu đau khổ? Trương Ba có thái độ như thế nào trước những rắc rối đó?
 +Nguyên nhân đã khiến cho người thân của Trương Ba và cả chính Trương Ba rơi vào bất ổn và phải chịu đau khổ là do hồn Trương Ba đã phải sống trong xác hàng thịt và chính xác hành thịt đã lấn át, điều khiễn và làm thay đổi con người của Trương Ba, làm cho Trương Ba không còn Trương Ba như trước nữa.
+ Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân. 
- Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà "đi đâu cũng được còn hơn là thế này". Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: "ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa". 
- Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân (tôi không phải là cháu ông Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có "bàn tay giết lợn", bàn chân "to bè như cái xẻng" đã làm "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, "Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!".
- Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, "khổ hơn xưa nhiều lắm". Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình "như sắp tan hoang ra cả" khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: "Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa"
Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng "cũng không khổ bằng bây giờ".
+ Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào. 
+ Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? "Chẳng còn cách nào khác"! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!". Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
Câu 3: Hãy chỉ ra sự khác nhau trong quan niệm của Trương Ba và Đế Thích và ý nghĩa sự sống. Theo anh chị, Trương Ba trách Đế Thích có đúng không? vì sao? Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích toát lên ý nghĩ gì?
+ Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: 
- Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn 
- Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!.
Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.
Câu 4: Khi Trương Ba kiên quyết đòi trả xác cho hàng thịt, Đế Thích định cho hồn Trương Ba nhập vào cu Tị, Trương Ba đã từ chối. Vì sao?
+ Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối" vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.
Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ "mở nút". Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật Hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm.

Tài liệu đính kèm:

  • docGiao an tu chon 12.doc