Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt

Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt

“Vợ nhặt” là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diên ra kinh khủng, người chết đày đường.

Truyện đã phản ánh được nổi đau khổ và niềm khát khao sống, khát khao hanh phúc của người nghèo qua đó nói lên số phận của con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Có thể nói một trong nhuwngc giá trị lớn nhất của “Vợ nhặt” là giá trị nhân đạo

 

doc 3 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 5530Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO CỦA VỢ NHẶT
“Vợ nhặt” là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diên ra kinh khủng, người chết đày đường.
Truyện đã phản ánh được nổi đau khổ và niềm khát khao sống, khát khao hanh phúc của người nghèo qua đó nói lên số phận của con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Có thể nói một trong nhuwngc giá trị lớn nhất của “Vợ nhặt” là giá trị nhân đạo
Cho đến nay trong nền văn học Việt Nam chưa có tác phẩm nào viết về trận đói năm Aát Dậu – 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Cảm hứng nhân đạo dạt dào từ đầu đến cuối truyện
1.Truyện Vợ nhặt đã phản ánh nổi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, của người nghèo trong trận đấu năm Aát Dậu. Qua đó nhà văn đã bộc lộ tấm lòng thương cảm với số phận con người trước Cách mạng tháng tám. Đoàn từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chíu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau lên “xanh xám như những bóng ma” nằm ngổn ngang khắp liều chợ. Qụa đen đậu trên những ngọn cây bay vù lên “như những đám mây đen” trên nền trời. Mùi ngay của xác người vẩn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ. Sáng nào cũng ba bốn cái thây nằm cong queo trên đường!
Đói và chết đói chỉ riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà “vắng teo đứng rúm ró” trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Cửa nhà là một tấm phênh rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đát. Cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng “nén một tiếng thở dài”. Bà cụ Tứ “mặt bủng beo u ám”. Anh cu Tràng “bước mệt mỏi”, cái đầu “trọc nhẵn chúi về đằng trước” với bao lo lắng chặt vặt. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thé, bây giờ chúng nó “ngồi ủ rủ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích”. Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái “ ngồi yêu ra”. Đặc biệt với nhân vật “thị”, cái đói dường như đã cướp đi tất cả, không họ tên, tuổi tác, ko gia đình, anh em, ko quê hương bản quán, hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương, áo quần “tả tơi như tổ đĩa”. Thị “gầy sọp hẳn đi”, khuôn mặt lưỡi cày “xám xịt”, chỉ còn thấy hai con mắt. Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Không những thế, cái đói còn bào mòn nhân cách của thị. Chỉ nghe Tràng nói ‘muốn ăn gì thì ăn”, thấy anh vỗ vỗ vào túi khoe. “rích bố cu”, hai con mắt “trũng hoáy” của thị tức thì “sáng lên”; tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của nhà nghèo.
Cái xóm ngụ cư càng về chiều “ càng xát xơ, heo hút”, nhà cửa “úp súp, tối om”, với những “hóc hác u tối”. Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám. Người con gái giữa trận đói như một thư vất đi, có thể “nhặt được”. Thị lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, chẳng co “quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau”. Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới “khép nép”, “cúi mặt xuống tay vân về tà áo đã rách bợt”. Tối tân hôn, “tiếng khóc tỉ tê” của những gia đình có người mới chết đói vọng đến thê thiết não nùng. Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dôi lên tùng hồi “dồn dập, vội vã”. Bằng những chi tiết rất thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện tình cảm thương xót, lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, khi nạn đói hoành hành. Đáng quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo để vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật, Pháp bắt trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận đoi năm Aát Dậu hơn hai triệu đồng bào ta chết đói
2.Truyện “Vợ Nhặt” đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đói với hạnh phúc của con người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu tràng nhặt vợ và những tình tiết xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu “tầm phơ tầm phào”. Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được vợ! Nhặt được vợ nhưng hắn cũng phải liều: “chặt, kệ !”. Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn “đèo bòng”. Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mờ cỡ trong bụng hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng “ phởn phơ khác thường”. Hắn “tủm tỉm bụ cười”. Hai mắt “sáng lên lấp lánh”. Có lúc cái mặt hắn “cứ vênh lên tự đắc với mình” 
Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông “hay đáo để”. Tràng khoe hai hào dâu, rồi cười hì hì, bị thị “phát đánh đét” vào lưng với câu mắng yêu : “Khỉ gió”. Tràng nghển cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Những tình tiết rất hay ấy nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết
Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới vô cùng cảm động. Vượt qua phong yuc tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba năm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thuuwong mình, bà nhận nàng dâu mới: “Ừ, các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đén con mình,. Mà con mình mới có vợ được..”. Bà dịu dàng yeu thương gọi nàng dâu là “con’. Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Qua đó ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao đọng nghèo khổ đứng trước tài hoa, họ đã dực vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới nhày mai với niềm tin và hi vọng: “Ai giàu ba họ, khó ba đời”. Người đọc cảm thấy, ngọn đèn “vàng đục” chiếu áng trong mái lều đêm tân hôn vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng vah hạnh phúc ấm no
Bữa cháo cơm đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong truyện “Vợ nhặt”. Bà cụ Tứ gọi là “chè khoán ngon đáo để”. Bà tự hào nói với hai con là “xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cảnh gia đình mẹ con vô cùng “đầm ấm hòa hợp” hạnh phúc. Sau này, vợ chồng con cái Tràng, có thể có những bữa cơm nhiều thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ ko bao giườ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo cám “đắng chát” mà lại ngot ngào chúa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu tâm lí, tình cảm của họ. Oâng đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ mà không một thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh được?
3. Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất để viết về sự đổi đời của ngườif dân cày Việt Nam. Mừng choa nh cu Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy “ có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ” Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã co vợ, bà như trẻ lại, nhẹ hỏm, tươi tỉnh “rạng rỡ hẳn lên”. Vợ Tràng trở thành một người đàn bà “hiền hậu đúng mực”. Tràng như từ một giấc mơ bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy “êm ái lững lờ”. Hạnh phúc đên quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn “vẫn ngỡ ngàng như ko phải”
Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lót đi đã được hót sạch. Mẹ chồng , nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần muôn sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ ko nghĩ đén cái chết mà hướng về sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thấy hắn đã “nên người”, mình thấy mình phải có bôn phận lo lắng cho họ sau này!
Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin cho mẹ và chồng ở mạn Thái Nguyên, bắc Giang người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thì thấy trong óc mình “lá cờ đỏ bay phấp phới”. Cách mạng sắp đến. Nạn đói bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện VN ko chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lac quan đầy chấn động, như một dự cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc 
Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tụy muộn ằm nhưng đáng quý và đáng trân trọng biết bao! Cổ kim đông tây đã co ai nhặt được vợ? Cái đói do bọïn Nhật, Pháp gây ra đã cướp đi tất cả, tính mạng và phẩm giá con người. Một sự thaatj được khẳng định: niềm khao khát yêu và hạnh phúc, khao khát sống mạnh hơn cái chết. Ta trân trọng biêt bao cái vị đời ngọt ngào và tình người ấm áp đã tỏa sáng giá trị nhân đạo của VN

Tài liệu đính kèm:

  • docon tap tot nghiep van hoc.doc