Tác gia Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ( 1890 - 1969 )

Tác gia Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ( 1890 - 1969 )

A. Mục tiêu bài học:

- Hiểu được quan điểm sáng tác, nắm được những nét khái quát về sự nghiệp văn học và những đặc điểm cơ bản của phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Hiểu được vì sao quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh thì nhất quán, nhưng phong cách nghệ thuật của Người thì lại phong phú, đa dạng.

- Vận dụng được những kiến thức nói trên vào việc cảm thụ và phân tích văn thơ của Người.

B. Nội dung bài học:

1. Vài nét về tiểu sử:

 - Hồ Chí Minh thời niên thiếu tên là Nguyễn Sinh Cung và Nguyễn Tất Thành, trong thời kì đầu hoạt động cách mạng mang tên Nguyễn Ái Quốc và mang nhiều bí danh khác.

 - Hồ Chí Minh sinh ngày 19 - 5 - 1890 trong một gia đình nhà Nho nghèo yêu nước ở làng Kim Liên, xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Song thân của Người là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và cụ Hoàng Thị Loan.

 - Tuổi trẻ, Người đã học chữ Hán trong gia đình, sau đó học trường Quốc học Huế và có một thời gian ngắn dạy học ở trường Dục Thanh – một trường học của tổ chức yêu nước ở tỉnh Phan Thiết ( nay là tỉnh Bình Thuận ) với tên gọi là Nguyễn Tất Thành.

 

doc 5 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 2253Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Tác gia Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ( 1890 - 1969 )", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh
 ( 1890 - 1969 )
A. Mục tiêu bài học:
- Hiểu được quan điểm sáng tác, nắm được những nét khái quát về sự nghiệp văn học và những đặc điểm cơ bản của phong cách nghệ thuật của Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh. Hiểu được vì sao quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh thì nhất quán, nhưng phong cách nghệ thuật của Người thì lại phong phú, đa dạng.
- Vận dụng được những kiến thức nói trên vào việc cảm thụ và phân tích văn thơ của Người.
B. Nội dung bài học:
1. Vài nét về tiểu sử:
 - Hồ Chí Minh thời niên thiếu tên là Nguyễn Sinh Cung và Nguyễn Tất Thành, trong thời kì đầu hoạt động cách mạng mang tên Nguyễn ái Quốc và mang nhiều bí danh khác.
 - Hồ Chí Minh sinh ngày 19 - 5 - 1890 trong một gia đình nhà Nho nghèo yêu nước ở làng Kim Liên, xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Song thân của Người là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và cụ Hoàng Thị Loan.
 - Tuổi trẻ, Người đã học chữ Hán trong gia đình, sau đó học trường Quốc học Huế và có một thời gian ngắn dạy học ở trường Dục Thanh – một trường học của tổ chức yêu nước ở tỉnh Phan Thiết ( nay là tỉnh Bình Thuận ) với tên gọi là Nguyễn Tất Thành.
 - Năm 1911, Hồ Chí Minh lên đường ra đi tìm đường cứu nước, từng sống và hoạt động ở nhiều nước thuộc châu âu, châu Phi và châu Mĩ.
 - Tháng 1 - 1919, Người đưa bản Yêu sách của nhân dân An Nam về quyền bình đẳng, tự do đến hội nghị Véc – xây ( Pháp ).
 - Năm 1920, người dự đại hội Tua và là một trong những thành viên đầu tiên tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp.
 - Từ 1923 đến 1941, Nguyễn ái Quốc hoạt động chủ yếu ở Liên Xô, Trung Quốc và Thái Lan. 
 - Người đã tham gia thành lập nhiều tổ chức cách mạng như Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ( 1925 ), hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức á Đông ( 1925 ) và chủ toạ hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước tại Hương Cảng, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam ( 3 - 2 - 1930 ).
 - Tháng 2 - 1941, Người về nước hoạt động và thành lập Mặt trận Việt Minh.
 - Ngày13 - 8 - 1942, Người lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế.
 - Ngày 29/8/1942, khi Người vừa tới Túc Vinh ( một thị trấn thuộc huyện Tĩnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc) thì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ và giam cầm trong suốt 14 tháng, trải qua gần 30 nhà tù của 13 huyện Quảng Tây.
 - Sau khi thoát khỏi nhà tù, Người về nước tiếp tục lãnh đạo cách mạng, tiến tới giành thắng lợi trong cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
 - Ngày 2 - 9 - 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình.
 - Trong phiên họp đầu tiên của quốc hội ( 6 - 1 - 1946 ), Hồ Chí Minh được bầu làm chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Từ đó, Người luôn đảm nhiệm những chức vụ cao nhất của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo toàn dân giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược.
 - Người qua đời vào ngày 2 - 9 - 1969.
 - Bên cạnh sự nghiệp vĩ đại, Hồ Chí Minh còn để lại một di sản văn hoá cao quý. Hồ Chí Minh là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Năm 1990, tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc đã suy tôn Người là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn.
2. Quan điểm sáng tác văn học nghệ thuật:
 Hồ Chí Minh là người đặt nền móng, là người mở đường cho nền văn học cách mạng. Người có ý thức và am hiểu sâu sắc quy luật, đặc trưng của hoạt động văn nghệ, từ phương diện tư tưởng chính trị đến nghệ thuật biểu hiện. Điều đó trước hết được thể hiện trực tiếp trong quan điểm sáng tác văn chương của Người:
- Hồ Chí Minh coi văn nghệ là thứ vũ khí chiến đấu lợi hại phụng sự cho sự nghiệp cách mạng, dùng ngòi bút của mình để đả kích chống lại bọn đế quốc - thực dân. Quan điểm của Hồ Chí Minh là sự tiếp thu, kế thừa quan điểm dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu trong truyền thống dân tộc và được nâng cao trong thời đại cách mạng vô sản:
+ Quan niệm này bộc lộ rõ trong tuyên ngôn nghệ thuật:
 Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
 ( Cảm tưởng đọc " Thiên gia thi " )
+ Sau này, trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951, Người lại khẳng định: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.
- Hồ Chí Minh luôn chú trọng tính chân thật và tính dân tộc của văn chương. Người coi tính chân thật như một thước đo giá trị của văn chương nghệ thuật. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Người nhắc nhở người nghệ sĩ nên chú ý phát huy cốt cách dân tộc và đề cao sự sáng tạo, chớ gò bó họ vào khuôn, làm mất vẻ sáng tạo.
- Khi cầm bút, Hồ Chí Minh bao giờ cũng xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm văn học. Người luôn tự đặt câu hỏi: Viết cho ai ?, Viết để làm gì ?, sau đó mới quyết định: Viết cái gì ? ( Nội dung ) và Viết như thế nào ? ( Hình thức ). Chính vì chú ý một cách toàn diện từ đối tượng tiếp nhận, mục đích sáng tác đến nội dung và hình thức của tác phẩm nên sáng tác của Người chẳng những có tư tưởng sâu sắc, nội dung thiết thực mà còn có hình thức nghệ thuật sinh động, phong phú, đa dạng.
ề Tóm lại, những quan điểm sáng tác nói trên của Hồ Chí Minh cũng giải thích vì sao trong trước tác của Người có những bài văn, bài thơ lời lẽ nôm na, giản dị, dễ hiểu; nhưng lại có những tác phẩm đạt tới trình độ nghệ thuật cao, phong cách độc đáo.
3. Sự nghiệp văn học:
a. Văn chính luận:
- Phần lớn những bài viết của Hồ Chí Minh thuộc loại văn chính luận với những hình thức khác nhau như : tiểu phẩm, bút chiến, lời kêu gọi, tuyên ngôn,Những bài văn chính luận này được viết với mục đích đấu tranh chính trị, nhằm tiến công trực diện kẻ thù hoặc thể hiện những nhiệm vụ cách mạng của dân tộc qua những chặng đường lịch sử.
- Từ những năm 20 của thế kỉ XX, các bài văn chính luận với bút danh Nguyễn ái Quốc đăng trên các tờ báo: Người cùng khổ ( Le Paria ), Nhân đạo, Đời sống thợ thuyền ( Le vieouvriere ) có tính chiến đấu mạnh mẽ. Các tác phẩm này lên án chế độ thực dân Pháp cùng với chính sách tàn bạo của chính phủ Pháp đối với các nước thuộc địa, kêu gọi những người nô lệ bị áp bức liên hiệp lại đoàn kết đấu tranh. Tác phẩm tiêu biểu nhất cho văn chính luận của Người trong những năm hoạt động cách mạng ở Pháp là: Bản chế độ thực dân Pháp, viết bằng tiếng Pháp, xuất bản lần đầu tiên tại Pa - ri năm 1925. Đây là bản án đanh thép, đầy sức thuyết phục về tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa.
- Tiêu biểu nhất cho văn chính luận của Người là bản Tuyên ngôn độc lập ( 1945 ). Đó là một văn kiện chính trị có giá trị lịch sử lớn lao, phản ánh khát vọng độc lập, tự do và cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ của dân tộc Việt Nam trước nhân dân trong nước và thế giới. Đồng thời, đây cũng là một áng văn chính luận mẫu mực : bố cục hợp lí, ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục, lời văn hùng hồn, tha thiết, ngôn ngữ trong sáng, giàu tính biểu cảm, chính xác, lí lẽ sắc bén.
+ Tuyên ngôn độc lập đã mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc đó là kỷ nguyên độc lập, tự do.
+ Tuyên ngôn độc lập là tác phẩm chính luận có giá trị pháp lí, giá trị lịch sử, giá trị nhân bản và giá trị nghệ thuật cao. Tác phẩm được viết với cảm hứng phấn chấn, giàu cảm xúc thẩm mĩ, tha thiết đề cao giá trị chân - thiện - mĩ của mỗi con người cũng như của cả dân tộc.
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ( 1946 ), Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966 ) là những văn kiện quan trọng được viết trong những giờ phút thử thách đặc biệt của dân tộc, thể hiện sâu sắc tiếng gọi thiêng liêng của non sông đất nước, văn phong vừa hào hùng, vừa tha thiết đã làm rung động hàng triệu trái tim yêu nước. Những tác phẩm ấy đã nói lên những vấn đề thời sự cấp bách của dân tộc, thể hiện sâu sắc tiếng gọi của non sông đất nước trong những giờ phút thử thách đặc biệt.
- Trong những năm tháng cuối đời, Người viết lời Di chúc thiêng liêng mà chan chứa tình cảm. Bản Di chúc là lời căn dặn thiết tha, chân tình với đồng bào, đồng chí , vừa mang tính chiến lược trong hướng phát triển của đất nước, vừa thấm đượm tình yêu thương con người.
 ề Tóm lại, đọc những áng văn chính luận của Hồ Chí Minh, ta có thể cảm nhận được tác giả viết không chỉ bằng lí trí sáng suốt, trí tuệ sắc sảo mà còn bằng cả tấm lòng yêu, ghét sâu sắc, mãnh liệt và nồng nàn.
b. Truyện kí :
- Trong những năm hoạt động ở Pháp ( 1922 đến 1925 ), Nguyễn ái Quốc sáng tác một số truyện ngắn; sau này được tập hợp lài trong tập Truyện và kí . Đó là những truyện được viết vào đầu những năm hai mươi của thế kỉ XIX, viết bằng tiếng Pháp, đăng báo ở Pari như: Pari ( 1922 ), Lời than vãn của bà Trưng Trắc ( 1922), Con người biết mùi hun khói ( 1922 ), Đồng tâm nhất trí ( 1922 ), Vi hành ( 1923 ), Những trò lố của Va – ren và Phan Bội Châu ( 1925 )
- Những truyện trên nói chung đều nhằm tố cáo tội ác dã man, bản chất tàn bạo và xảo trá của bọn thực dân và phong kiến tay sai đối với nhân dân lao động các nước thuộc địa, đồng thời đề cao những tấm gương yêu nước và cách mạng. Tác giả viết những truyện ngắn này bằng một bút pháp rất hiện đại với những tình huống truyện độc đáo , hình tượng góc cạnh, sinh động, nghệ thuật trần thuật linh hoạt.
- Truyện ngắn của Nguyễn ái Quốc cô đọng, cốt truyện sáng tạo, kết cấu độc đáo. Mỗi truyện đều có tư tưởng riêng, hấp dẫn, sáng tỏ, ý tưởng thâm thuý, chất trí tuệ toả trong hình tượng.
- Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định tài năng viết truyện ngắn của Nguyễn ái Quốc. Hà Minh Đức nhận xét: Chất trí tuệ và tính hiện đại là những nét đặc sắc của truyện ngắn Nguyễn ái Quốc. Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng ngòi bút châm biếm của Nguyễn ái Quốc vừa sâu sắc, đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn, hóm hỉnh.
- Thời kì hoạt động ở Pháp vào những năm 20 đầu thế kỉ XX, Người viết báo và chủ yếu là dùng báo chí để vạch trần tội ác của chế độ thực dân Pháp. Người tấn công kẻ thù bằng nhiều hình thức linh hoạt khác nhau, khi thì dựa trên sự thật tai nghe mắt thấy như báo chí, khi thì dựa vào tưởng tượng, ước đoán, giả định nhưng đều phù hợp và có khả năng nói lên bản chất của đối tượng , và Người đã vận dụng hư cấu nghệ thuật. Khải Định đi Pháp, đó là sự việc có thật và Nguyễn ái Quốc đã vận dụng trí tưởng tượng phong phú để viết hai truyện ngắn: Lời than vãn của bà Trưng Trắc và Vi hành; tiểu phẩm Sở thích đặc biệt và vở kịch Con rồng tre,
- Qua những thiên truyện ngắn này, người đọc có thể nhận ra một cây bút văn xuôi đầy tài năng với trí tưởng tượng phong phú, một vốn văn hoá sâu rộng, một trí tuệ sâu sắc và một trái tim tràn đầy nhiệt tình yêu nước và cách mạng.
- Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, truyện ngắn Giấc ngủ mười năm ( 1949 ) với bút danh Trần Lực là một sáng tác giàu tinh thần lạc quan cách mạng và có ý nghĩa dự báo.
- Ngoài truyện ngắn, Hồ Chí Minh còn có những tác phẩm kí đặc sắc như : Nhật kí chìm tàu ( 1931), Vừa đi đường vừa kể chuyện ( 1963 )
c. Thơ ca:
- Thơ ca là lĩnh vực nổi bật nhất trong giá trị sáng tạo văn chương của Hồ Chí Minh. Với trên 250 bài thơ có giá trị, được tuyển chọn và in trong tập Nhật kí trong tù ( 133 bài - 1960 ), Thơ Hồ Chí Minh ( 86 bài - 1967 ), Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh ( 36 bài - 1990 ), Người đã có những đóng góp quan trọng cho nền thơ Việt Nam hiện đại.
- Nhật kí trong tù là tập thơ tiêu biểu nhất trong di sản thơ ca của Hồ Chí Minh. Tập thơ được sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt : lúc Nguyễn ái Quốc bị giam cầm trong nhà tù Quốc dân đảng tại Quảng Tây, Trung Quốc từ ngày 29 - 8 - 1942 đến 10 - 9 - 1943.
+ Tác phẩm đã tái hiện được một cách chân thực, chi tiết bộ mặt tàn bạo của nhà tù Quốc dân đảng. Đó còn là hình ảnh của một phần xã hội Trung Quốc những năm 1942, 1943
+ Nhật kí trong tù là một tập thơ, cho nên nó chủ yếu thể hiện tâm sự của tác giả, phản ánh tâm hồn và nhân cách cao đẹp của người chiến sỹ cách mạng trong hoàn cảnh thử thách nặng nề ở chốn lao tù. Vì thế, qua tập thơ ca, ta có thể nhận ra bức chân dung tự hoạ của Hồ Chí Minh.
+ Nhật kí trong tù là tập thơ chứa chan tình cảm nhân đạo. Trong hoàn cảnh bị giam cầm tù tội, tâm hồn của Người vẫn hướng tới, cảm thông với bao cuộc đời lam lũ, khổ đau, tủi nhục, bao con người bị đẩy vào cảnh ngộ éo le ( Người bạn tù thổi sáo, Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng  ).
+ Tình cảm nhân đạo chứa trong Nhật kí trong tù thuộc về chủ nghĩa nhân đạo của giai cấp vô sản, một chủ nghĩa nhân đạo mang tính chất dân chủ và bình đẳng. Tình cảm thương yêu của Hồ Chí Minh trước hết hướng về những người lao động, từ phu làm đường đến những người nông dân lam lũ một nắng hai sương ( Phu làm đường, Cảnh đồng nội ).
 + Nhiều bài thơ trong Nhật kí trong tù chứa đựng những bài học về nhân sinh, đạo lí cho các thế hệ hôm nay và mai sau; nhiều bài thể hiện lòng yêu nước thiết tha của người chiến sĩ cộng sản trong cảnh ngộ xa nước ( Không ngủ được , Nhớ bạn); Có những bài biểu hiện phong thái ung dung của tâm hồn nhạy cảm trước cái đẹp của cảnh sắc thiên nhiên ( Giải đi sớm, Cảnh chiều hôm).
+ Nhật kí trong tù là một tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật. Nhiều tứ thơ được thể hiện rất sáng tạo ( Không ngủ được, Đi đường) nhiều hình ảnh gợi cảm từ mặt trời buổi sớm, vầng trăng trong đêm, dòng sông chảy giữa hai bờ làng xóm, làng quê được mùa. Thể thơ tứ tuyệt được sử dụng thành thực, tạo nên vẻ đẹp vừa hàm súc vừa linh hoạt, tài hoa.
+ Nhật kí trong tù là một tập thơ sâu sắc về tư tưởng, độc đáo mà đa dạng về bút pháp: bút pháp trữ tình, bút pháp tả thực, bút pháp mỉa mai, châm biếm, bút pháp hài hước, tự hào,Đó là một tập thơ lớn, kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ ca Hồ Chí Minh.
- Ngoài Nhật kí trong tù, còn phải kể đến một số chùm thơ Người sáng tác ở Việt Bắc từ năm 1941 đến năm 1945 và trong thời kì chống thực dân Pháp:
+ Thơ trữ tình độc đáo và những bài thơ mộc mạc, giản dị dễ tuyên truyền đường lối cách mạng: Dân cày, Công nhân, Pác Bó hùng vĩ, Tức cảnh Pác Bó, Bài ca du kích, Ca sợi chỉ,
 + Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, qua thơ, Người đã bộc lộ nỗi niềm lo lắng về vận mệnh non sông đất nước và tình cảm thiết tha gắn bó với thiên nhiên: Cảnh khuya, Đi thuyền trên sông Đáy, Cảnh rừng Việt Bắc
 + Có những bài thơ vừa mang màu sắc cổ điển, vừa hiện đại: Nguyên tiêu, Thu dạ, Báo tiệp,
 + Người ca ngợi sức mạnh của quân dân ta trong cuộc kháng chiến và niềm vui chiến thắng: Rằm tháng giêng, Lên núi, Tin thắng trận, Đêm thu,
 4. Phong cách nghệ thuật:
 Văn thơ Hồ Chí Minh có phong cách nghệ thuật riêng độc đáo mà đa dạng, thống nhất, kết hợp sâu sắc và nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa chính trị và văn chương, giữa tư tưởng và nghệ thuật, giữa truyền thống và hiện đại. ở mỗi thể loại văn học, Người đều có phong cách riêng, độc đáo, hấp dẫn mà có giá trị bền vững.
- Văn chính luận của Hồ Chí Minh thường ngắn gọn, tư duy sắc sảo, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng đầy thuyết phục, giàu tính lập luận chính và đa dạng về bút pháp ( Những tác phẩm Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến,... ).
- Trong truyện và kí, ngòi bút của Nguyễn ái Quốc rất chủ động và sáng tạo; khi là lối kể chân thực, tạo không khí gần gũi, có khi là giọng điệu châm biếm sắc sảo, thâm thuý và tinh tế. Chất trí tuệ, tính hiện đại, tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén là những nét đặc sắc trong truyện ngắn của Người ( Những truyện như Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Vi hành, Những trò lố hay là Va - ren và Phan Bội Châu,... Những truyện ngắn trên đều chứng tỏ tác giả có trí tưởng tượng phong phú, tài năng tạo những tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật trào phúng của tác phẩm ).
- Thơ ca là thể loại thể hiện sâu sắc nhất phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh: 
+ Nhiều bài viết theo hình thức cổ thi hàm súc, uyên thâm, đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật, có sự hòa hợp độc đáo giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại, giữa chất tình và chất thép ( Những bài thơ như Chiều tối, Giải đi sớm, Rằm tháng riêng, Cảnh khuya,... ). 
+ Những bài thơ nhằm mục đích tuyên truyền cách mạng như Ca dân cày, Ca công nhân, Ca binh lính,... lời lẽ mộc mạc, dễ nhớ, mang màu sắc dân gian hiện đại:
 Thân người như thể thân trâu
 Cái phần no ấm có đâu tới mình
 ( Ca dân cày )
 Mẹ tôi là một đóa hoa
 Thân tôi trong sạch, tôi là cái bông,...
 ( Ca sợi chỉ )
* Những yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành phong cách của Hồ Chí Minh:
- Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống gia đình, môi trường và hoàn cảnh sống, hoạt động cách mạng cùng với bản sắc tinh thần của Người. Ngay từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã được sống trong không khí của văn chương cổ điển Việt Nam và Trung Quốc, của thơ Đường, thơ Tống,... Trong thời kì hoạt động cách mạng ở nước ngoài, nhiều năm Người sống ở Pa - ri, tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của những nhà văn và nền văn học phương Tây hiện đại. 
- Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh còn được hình thành do quan điểm của Người đối với sáng tác văn học của mình. Khi cầm bút, Người thường đặt những câu hỏi: Viết cho ai ?, Viết để làm gì ?; sau đó mới đi đến quyết định: Viết cái gì ? ( Nội dung ), Viết như thế nào ? ( Hình thức ).
5. Kết luận: 
- Văn thơ Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô giá, là một bộ phận gắn bó hữu cơ với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người.
- Văn thơ của Người không chỉ có tác dụng to lớn với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam mà còn có vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử văn học và đời sống tinh thần của dân tộc.
- Những tác phẩm văn học xuất sắc của Hồ Chí Minh đã thể hiện chân thực và sâu sắc tư tưởng, tình cảm và tâm hồn cao cả của Người.
- Văn thơ Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc tấm lòng yêu thương và tâm hồn cao cả của Người:
+ Đó là tiếng nói nhân danh người cùng khổ đấu tranh đòi quyền sống, nhân danh một dân tộc bảo vệ quyền độc lập, tự do.
+ Đó là tiếng nói của người cần lao Người đi dép lốp cao su và nhà chiến lược luôn lạc quan tin vào sức mạnh của chân lí và của con người đang vươn tới chân - thiện - mĩ.
6. Ghi nhớ: 
- Văn thơ Hồ Chí Minh là di sản vô giá, là một bộ phận gắn bó hữu cơ với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Hồ Chí Minh đòi hỏi văn học phải trở thành vũ khí sắc bén phục vụ sự nghiệp cách mạng. Phương châm của Người là tự đặt ra những câu hỏi: Viết cho ai ?, Viết để làm gì ?, sau đó mới quyết định: Viết cái gì ? và Viết như thế nào ?.
- Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh độc đáo mà đa dạng. Văn chính luận của Người thường ngắn gọn, súc tích, tư duy sắc sảo, lập luận chặt chẽ, bằng chứng đầy thuyết phục và đa dạng về bút pháp. Truyện và kí của Người rất hiện đại, có tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén. Thơ nghệ thuật Hồ Chí Minh có sự hòa hợp độc đáo giữa bút pháp cổ điển và hiện đại, giữa chất tình và chất thép. giữa trong sáng, giản dị và hàm súc, sâu xa.
7. Luyện tập:
 Phân tích hai bài thơ Chiều tối và Giải đi sớm để làm rõ sự hoà hợp độc đáo giữa bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại của thơ Hồ Chí Minh:
- Đó là một thế giới đầy thiên nhiên. Thiên nhiên được nhìn từ xa, được gợi lên bằng một vài nét chấm phá, không nhằm ghi lại được hình xác mà chỉ cốt truyền được linh hồn của tạo vật. Màu sắc cổ điển còn được thể hiện ở phong thái ung dung của nhân vật trữ tình.
- Tuy nhiên, nhìn ở phương diện khác, cả hai bài thơ đều thể hiện rất rõ bút pháp hiện đại, tinh thần hiện đại. Thiên nhiên trong hai bài thơ không tĩnh lặng mà vận động một cách khoẻ khoắn, hướng tới sự sống, ánh sáng và tương lai. Nhân vật trữ tình cũng thế, không phải là ẩn sĩ mà là chiến sĩ, luôn luôn ở trong tư thế làm chủ hoàn cảnh, không bị chìm đi mà nổi bật hẳn lên giữa bức tranh thiên nhiên
- Hai bài thơ trên cũng thể hiện rất rõ sự hoà hợp giữa chất thép và chất tình, giữa tư cách người chiến sĩ và thi sĩ. Chất tình ở hai bài thơ bộc lộ rất rõ, còn chất thép được thể hiện ở cảm hứng quên mình, vượt lên những gian khổ, thử thách khắc nghiệt trên đường đi đày để cảm nhận tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và niềm vui của người lao động.
----------Hết-----------

Tài liệu đính kèm:

  • docTac gia Nguyen Ai Quoc Ho Chi Minh.doc