MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA HỌC KỲ II - NĂM HỌC 2023-2024 MÔN: NGỮ VĂN LỚP: 12 Thời gian làm bài: 120 phút Vận dụng Nhận biết Thông hiểu Cấp độ (Chỉ ghi số (Chỉ ghi số Cấp độ thấp Cấp độ cao Chủ đề/Chuẩn KTKN câu/điểm, không câu/điểm, không ghi (Chỉ ghi số câu/điểm, (Chỉ ghi số câu/điểm, (Ghi tên bài hoặc chủ đề và chuẩn kiến thức, ghi nội dung) nội dung) không ghi nội dung) không ghi nội dung) kĩ năng kiểm tra đánh giá) I. Phần đọc – hiểu (3,0 điểm) - Các phương thức biểu đạt - Các thao tác lập luận 1 câu/ 0,5 điểm 2 câu/ 1,5 điểm 1 câu/ 1,0 điểm - Các phong cách ngôn ngữ - Nội dung và hình thức văn bản II. Phần làm văn (7,0 điểm) 1. Nghị luận xã hội (2,0 điểm) Viết đoạn văn khoảng 200 chữ về một vấn đề xã hội (Tích hợp nội 1 câu/ 2,0 điểm dung phần đọc - hiểu) 2. Nghị luận văn học (5,0 điểm) - Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài 1 câu/ 5,0 điểm - Vợ nhặt – Kim Lân - Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu Tổng số câu: 06 Số câu: 01 Số câu: 02 Số câu: 02 Số câu: 01 Tổng số điểm: 10,0 Số điểm: 0,5; Số điểm: 1,5; Số điểm: 3,0; Số điểm: 5,0; Tỉ lệ: 5,0% Tỉ lệ: 15% Tỉ lệ: 30% Tỉ lệ: 50% 1 2 ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KÌ II, MÔN NGỮ VĂN 12 NĂM HỌC 2023-2024 I. KIẾN THỨC PHẦN ĐỌC- HIỂU VÀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI Xem lại đề cương ôn tập kiểm tra giữa kì II. ĐỀ LUYỆN TẬP ĐỌC HIỂU VÀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 1. Đề 1 PHẦN ĐỌC- HIỂU Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: “Tự trọng” có nghĩa là biết coi trọng mình, nhưng không phải theo nghĩa vị kỷ (chỉ biết đến danh lợi của bản thân mình) mà là coi trọng phẩm giá/đạo đức của mình. Một người có tự trọng hay không cũng thường được thể hiện qua câu trả lời hay qua hành xử của anh ta qua những câu trả lời như: “Điều gì khiến tôi sợ hãi/xấu hổ?”, “Điều gì khiến tôi tự hào/hạnh phúc?” Người tự trọng tất nhiên sẽ biết sợ sự trừng phạt của nhà nước, nếu làm trái pháp luật và sự điều tiếng dư luận của xã hội, nếu làm trái với luân thường, lẽ phải. Nhưng đó chưa phải là điều đáng sợ nhất đối với họ. Điều đáng sợ nhất đối với một người tự trọng là sự giày vò bản thân khi làm những chuyện đi ngược với lương tri của mình, phản bội lại lẽ sống, giá trị sống, nguyên tắc sống mà mình theo đuổi và có cảm giác đánh mất chính mình. Nói cách khác, đối với người tự trọng, có đạo đức, “toà án lương tâm” còn đáng sợ hơn cả “tòa án nhà nước” hay “tòa án dư luận”. Người tự trọng thường đối diện với lương tri và phẩm giá bản thân, đối diện với “con người bên trong” của mình để hành động hơn là đối diện với sự răn đe của luật pháp hay sự phán xét của dư luận bên ngoài. Do đó, họ sẽ khó có thể làm việc xấu, việc sai ngay cả khi việc xấu, việc sai đó rất có lợi cho mình và nếu có làm thì cũng không sao cả, vì việc xấu việc sai đó đã trở nên phổ biến và bình thường với mọi người. Người tự trọng có hạnh phúc, có tự hào khi được sự ghi nhận, mến trọng hay ngưỡng mộ của người khác dành cho mình không? Câu trả lời đương nhiên là có, rất hạnh phúc, rất tự hào. Nhưng đó chưa phải là hạnh phúc lớn nhất. Niềm hạnh phúc lớn nhất đối với họ là niềm tự hào sâu kín và riêng tư từ bên trong con người của họ về những việc mà họ làm, về những điều mà họ theo đuổi. Chính vì được dẫn dắt bởi nội tại của bản thân hơn là bị chi phối từ bên ngoài, người tự trọng thường rất tự do và tự trị khi hành động. (Trích Đúng việc, Giản Tư Trung, NXB Tri thức) Câu 1. (0,75 điểm) Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn văn bản trên. Câu 2.(0,75 điểm) Theo tác giả, điều đáng sợ nhất đối với một người có lòng tự trọng là gì ? Câu 3. (1.0 điểm) Anh/chị hiểu như thế nào về câu : Nói cách khác, đối với người tự trọng, có đạo đức, “toà án lương tâm” còn đáng sợ hơn cả “tòa án nhà nước” hay “tòa án dư luận”.? Câu 4. (0,5 điểm) Anh/chị có đồng tình với quan niệm của tác giả: “Niềm hạnh phúc lớn nhất đối với họ (người có lòng tự trọng) là niềm tự hào sâu kín và riêng tư từ bên trong con người của họ về những việc mà họ làm, về những điều mà họ theo đuổi” không? Vì sao? NGHỊ LUẬN XÃ HỘI Câu 1: (2,0 điểm). Từ nội dung của đoạn văn phần đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn nghị luận ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sự cần thiết của lòng tự trọng đối với mỗi con người. 2. Đề 2 PHẦN ĐỌC- HIỂU Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: “Nắng trong mắt những ngày thơ bé Cũng xanh mơn như thể lá trầu 3 Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau Chở sớm chiều tóm tém Hoàng hôn đọng trên môi bà quạnh thẫm Nắng xiên khoai qua liếp vách không cài Bóng bà đổ xuống đất đai Rủ châu chấu, cào cào về cháu bắt Rủ rau má, rau sam Vào bát canh ngọt mát Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình”. (Trích Thời nắng xanh - Trương Nam Hương) Câu 1. (0,75 điểm) Xác định thể thơ của văn bản trên? Câu 2. (0,75 điểm) Trong văn bản, tác giả đã nhớ lại những hình ảnh nào của thời thơ bé? Câu 3. (1.0 điểm) Chỉ ra và nêu tác dụng của một biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ: "Nắng trong mắt những ngày thơ bé Cũng xanh mơn như thể lá trầu”? Câu 4. (0,5 điểm) Nhận xét về thái độ tình cảm của tác giả đối với người bà trong văn bản trên. II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI Câu 1: (2,0 điểm) Từ nội dung của đoạn văn phần đọc hiểu anh( chị) hãy viết một đoạn nghị luận ngắn( khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sức mạnh của tình yêu quê hương đối với mỗi con người. 3. Đề 3 Đọc văn bản sau: “Nhiều người chúng ta từ lâu đã quen đối phó với cuộc sống và hoàn cảnh thay vì hãy hành động. Chúng ta để thái độ người khác chi phối cảm nhận của mình về bản thân. Để có sự lựa chọn hành động một cách kín đáo thay vì đối phó, chúng ta cần có sự suy nghĩ chín chắn. Sẵn sàng chịu trách nhiệm về bản thân, cam kết giữ vững lập trường thay vì sự phụ thuộc vào ý kiến người khác là điều góp phần thiết lập nên cái nhìn tổng quát về bản chất của mỗi cá nhân. Đối với nhiều người đây là một bước tiến vĩ đại. Khi quyết định chịu trách nhiệm về bản thân và cố gắng kiểm soát mọi hành động và cảm xúc cho phù hợp với từng hoàn cảnh, chúng ta đã tạo tiền đề cho việc hình thành những mối quan hệ tốt đẹp. Nhiều người tỏ ra không thích “sự độc lập” mà chúng ta lựa chọn, bởi điều đó đồng nghĩa với việc họ không còn có khả năng kiểm soát hành động của chúng ta nữa. Việc giải phóng bản thân khỏi sự kiểm soát của người khác có lợi cho cả hai bên. Mỗi lần áp dụng cách cư xử này, bạn sẽ cảm nhận được nguồn sức mạnh tiềm ẩn mà bạn chưa từng biết mình đang sở hữu. Hành động thay vì đối phó không chỉ hữu ích trong những cuộc chạm trán gây go. Và việc tự giác chịu trách nhiệm về hành vi của mình là một yêu cầu quan trọng”. (“Khi thay đổi thế giới sẽ đổi thay”- Karen Casey, NXB Tổng hợp TP. HCM, 2010, tr.72) Thực hiện các yêu cầu dưới đây: Câu 1: Dựa vào đoạn trích hãy cho biết điều “góp phần thiết lập nên cái nhìn tổng quát về bản chất của mỗi cá nhân” là gì? Câu 2: Theo tác giả, tại sao “Nhiều người tỏ ra không thích “sự độc lập” mà chúng ta lựa chọn”? Câu 3: Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến: “Việc giải phóng bản thân khỏi sự kiểm soát của người khác có lợi cho cả hai bên”? 4 Câu 4: Bài học có ý nghĩa mà anh/chị rút ra cho bản thân từ việc đọc văn bản trên? II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI Câu 1 (2,0 điểm). Từ nội dung văn bản phần Đọc - hiểu, anh/chị viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu ý kiến của mình về sự cần thiết của “việc tự giác chịu trách nhiệm về hành vi” đối với bản thân của mỗi người trong cuộc sống. 4. Đề 4 I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm) Đọc đoạn thơ: ( ) Những nấc thang vươn tòa tháp cao tầng Trên đỉnh tháp hay trên vòm núi lửa Xé hỏa diệm sơn điên cuồng phong tỏa Nhằm hướng tiếng gào cầu cứu xông lên Dòng người ngược chiều khựng lại lo âu Hồi hộp dõi theo bóng người chìm tro bụi Giữa cột khói điên cuồng man dại Vật lộn hiểm nguy trong bão lửa ngút trời Ngược chiều nỗi sợ Ngược chiều những bước chân Ngược chiều không gian Nhưng trái tim đang nhằm cùng một hướng Trận đánh cam go dẫu không tiếng súng Đích đến của anh, hạnh phúc bao người. (Ngược chiều, Lê Cảnh Nhạc,Nguồn 11/08/2022) Thực hiện các yêu cầu: Câu 1. Xác định thể thơ của đoạn thơ. Câu 2. Dựa vào đoạn thơ, chỉ ra những từ ngữ thể hiện sự nguy hiểm trong Trận đánh cam go dẫu không tiếng súng của người lính cứu hỏa. Câu 3. Nêu tác dụng phép điệp trong các dòng thơ: Ngược chiều nỗi sợ Ngược chiều những bước chân Ngược chiều không gian Nhưng trái tim đang nhằm cùng một hướng Câu 4. Dòng thơ Đích đến của anh, hạnh phúc bao người trong đoạn thơ gợi anh/ chị suy nghĩ gì? II. PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI Câu 1 (2,0 điểm). Từ nội dung bài ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ ý nghĩa của việc vượt qua những thử thách trong cuộc sống. III. KIẾN THỨC PHẦN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI I. Nét tiêu biểu về tác giả, tác phẩm Tác giả Tô Hoài Tác phẩm Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài là nhà văn lớn trong nền văn xuôi hiện đại - “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn tiêu Việt Nam. biểu in trong tập “Truyện Tây Bắc” kết - Ông có vốn hiểu biết phong phú sâu sắc về phong tục, quả sau chuyến Tô Hoài cùng bộ đội tập quán của nhiều vùng quê. vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. - Văn ông luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm - Truyện phản ánh chân thực xúc động bức tranh hiện thực đau thương về cuộc 5 hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có sống của người dân miền núi Tây Bắc - nhiều khi rất bình dị và thông tục, nhưng nhờ cách sử trong xã hội xưa. dụng đắc địa, tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc. II. Nội dung và nghệ thuật 1. Giới thiệu chung về Mị - Trước khi bị bắt làm dâu gạt nợ: Mị là cô gái trẻ, đẹp tài hoa “thổi lá cũng hay như thổi sáo”, yêu đời, yêu tự do, hiếu thảo, siêng năng, có tình yêu hạnh phúc. Mị xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc. - Mị bị cha con thống lí Pá Tra lợi dụng tập tục bắt dâu đã bắt cóc Mị, biến Mị thành dâu gạt nợ chỉ vì cha mẹ Mị nợ bạc trắng nhà thống lí không trả được. - Khi mới bị bắt về làm dâu gạt nợ: đêm nào Mị cũng khóc. Một lần Mị bỏ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra đem theo nắm lá ngón định tự tử. - Sau khi về làm dâu: Mị sống cuộc đời nô lệ, đắng cay, tủi nhục đầy nước mắt. + Mị bị bóc lột sức lao động hết sức nặng nề: nhà văn sử dụng phép liệt kê để miêu tả: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì lên nương bẻ bắp”. và dù là khi hái củi hay lúc bung ngô, “lúc nào cũng phải gài bó đay ở cánh tay để tước thành sợi”. + Mị còn bị A Sử đánh đập dã man, tàn bạo, không cần lí do: Mị vừa định đi chơi ngày tết mùa xuân liền bị A Sử trói đứng vào cây cột trong buồng. Sáng ra phải lên rừng hái lá thuốc xoa bóp cho hắn, mệt quá, thiếp đi, Mị liền bị A Sử lấy chân đạp vào mặt. Đêm đông không ngủ được, ngồi sưởi lửa, Mị bị A Sử đi chơi về đạp ngã dúi xuống bên cạnh + Mị còn bị tước đoạt mọi quyền tự do chính đáng: • Những đêm tình mùa xuân, tất cả mọi người có vợ, có chồng rồi đều được đi chơi. Mị vừa có ý định đi chơi lập tức bị A Sử trói đứng vào cây cột trong buồng. • Mị phải sống như tù giam lỏng trong căn buồng mà cửa sổ bằng lòng bàn tay suốt ngày nhìn ra chỉ thấy một màu “nhờ nhờ trăng trắng không biết là sương hay nắng”. • Mị cũng như tất cả phụ nữ Tây Bắc bị sức mạnh thần quyền áp chế về tinh thần, bị bắt “cúng trình ma” khiến họ suốt đời bị trói buộc trong nhà chồng. → Số phận Mị thực chất là số phận nô lệ, đắng cay, tủi nhục bị chà đạp cả thể xác lẫn tinh thần. 2. Mị trong đêm tình mùa xuân * Không khí đêm tình mùa xuân: hiện lên với hình ảnh những chiếc váy áo mới sặc sỡ như những cánh bướm, thanh niên, trẻ con tụ tập chơi đánh pao, đánh quay, ném còn đặc biệt là âm thanh tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình. Lời bài hát mộc mạc, giản dị nhưng chứa chan tình đời, tình người và khát vọng tự do đã tác động mạnh mẽ tạo nên sự chuyển biến lớn trong Mị, nâng đỡ tâm hồn Mị, mỗi khi tâm hồn cô rơi vào trạng thái bế tắc âm thanh đó lại kịp thời xuất hiện thổi bùng lên sức sống trong cô. * Chuyển biến tâm trạng của Mị: - Mị trước khi bị trói đứng + Tâm trạng đắng cay tủi cực qua cách uống rượu: Mị uống rượu, “uống ực từng bát” → diễn tả trạng thái đắng cay, tủi cực của Mị, vừa thể hiện tấm lòng xót xa, thấu hiểu của nhà văn với Mị: Mị như muốn nuốt đi tất cả nỗi cay đắng, muốn chôn vùi tất cả quãng đời đau thương + Âm thanh tiếng sáo đánh thức sức sống trong Mị xuất hiện “cứ văng vẳng bên tai” đánh thức hồi ức tươi đẹp của Mị trước đây: • Mị nhớ ngày trước Mị “thổi lá cũng hay như thổi sáo, trai làng biết bao người mê, ngày đêm đi theo Mị ”. • Mị ý thức mình còn trẻ, có quyền hưởng tự do, hạnh phúc. Mị so sánh: Bao nhiêu người có vợ có chồng rồi cũng đi chơi huống chi Mị và A Sử “không có lòng mà vẫn phải ở với nhau”. 6 • Hình ảnh A Sử, bóng đêm đen tối kéo Mị trở lại đối diện với hiện thực đau thương tủi nhục chỉ toàn nước mắt. Mị nghĩ “nếu có nắm lá ngón Mị sẽ ăn cho chết ngay” bởi Mị đã thức tỉnh, Mị không thể chấp nhận kiếp đời nô lệ xót xa, cay đắng này! • Thật kì diệu! Lá ngón không có mà âm thanh tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình lại kịp thời xuất hiện nâng đỡ tâm hồn cô. Mị thắp đèn cho sáng lên để xua đi màn đêm đen tối; Mị ý thức vẻ đẹp của người phụ nữ nên với tay lấy váy áo mới để chuẩn bị đi chơi. - Mị trong đêm bị trói đứng: +A Sử trở về trói đứng Mị vào cây cột trong buồng. Tóc Mị xõa xuống, nó quấn luôn lên cột khiến suốt đêm đau nhức, nước mắt rơi xuống mà không thể lau đi được. + Mị quên hẳn thực tại đau khổ. Tâm hồn cô bay bổng cùng âm thanh dìu dặt của tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình. “Mị vùng bước đi”. + Chính hành động biểu hiện khát vọng tự do, hạnh phúc mãnh liệt lại kéo Mị trở lại đối diện với hiện thực nô lệ đen tối, tủi nhục. Mị thấy chân tay đau nhức, Mị thổn thức, cay đắng xót xa nhận thức “mình không bằng con ngựa”! + Đến gần sáng, Mị chợt nhớ tới câu chuyện người đàn bà bị chồng trói đứng cho đến chết trước đây, trong căn nhà này. Sợ quá, Mị cố cựa thật mạnh xem mình còn sống hay chết. Điều này chứng tỏ Mị vẫn khao khát sống. 3. Mị trong đêm mùa đông - Tâm trạng thờ ơ, vô cảm ban đầu: Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Trái tim cô dường như đã giá băng, tâm hồn cô trở nên vô cảm. - Tâm trạng tự thương mình, thương A Phủ, căm thù cha con thống lí và sức mạnh vùng lên cắt dây, cởi trói cho A Phủ: + Dòng nước mắt chảy dài trên hai gò má xạm đen của A Phủ xuất hiện. + Mị nhớ cảnh mình bị trói đứng trước đây nước mắt chảy ra mà không lau đi được. + Mị thương mình, thương A Phủ: “Cơ chừng này chỉ đêm nay, đêm mai là người kia sẽ phải chết. Chết đau! Chết đói! Chết rét! Phải chết!”. + Trong tình huống đó Mị nhận ra thủ phạm chính là cha con thống lí Pá Tra. Mị căm thù kết án: “Cha con chúng thật độc ác!”. - Cởi trói cho A Phủ xong: Sau khi cởi trói cho A Phủ, đối diện với hiện thực mình có thể chết, Mị sợ hãi “đứng lặng trong giây lát”. Nhưng khát vọng sống mạnh hơn, Mị vùng chạy theo A Phủ tự giải thoát cho mình. Mị nói: “A Phủ cho tôi đi. ... Ở đây thì chết mất”. 4. Giá trị hiện thực a. Truyện ngắn “VCAP” của TH phản ánh chân thực bộ mặt xấu xa, tàn ác của giai cấp thống trị miền núi Tây Bắc thông qua hình tượng cha con thống lí Pá Tra. - Lợi dụng sức mạnh cường quyền và sự mê tín của nhân dân, giam giữ các cô gái suốt đời phải làm nô lệ trong nhà chồng ( Mị bị bắt làm dâu gạt nợ). - Bóc lột sức lao động của Mị một cách tàn nhẫn. - Cho vay nặng lãi, khiến cha mẹ Mị hết cuộc đời vẫn không trả được nợ. - Đánh đập Mị và A Phủ dã man, tàn bạo. b. Truyện ngắn “VCAP” của TH phản ánh bức tranh hiện thực về cuộc sống đau thương tủi, nhục của người dân miền núi Tây Bắc trong xã hội xưa qua số phận của Mị và A Phủ. * Số phận của Mị. - Mị trước khi bị bắt làm dâu gạt nợ: Mị là cô gái trẻ, đẹp tài hoa “thổi lá cũng hay như thổi sáo”, yêu đời, yêu tự do, hiếu thảo, siêng năng, có tình yêu hạnh phúc. Mị xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Giữa lúc tâm hồn Mị đang tràn ngập hạnh phúc niềm vui, hi vọng thì Mị bị cha con thống lí Pá Tra lợi dụng tập tục bắt dâu đã bắt cóc Mị, biến Mị thành dâu gạt nợ chỉ vì cha mẹ Mị nợ bạc trắng nhà thống lí không trả được. Điều đó tạo nên cuộc đời bi kịch của Mị. 7 - Sau khi bị bắt về làm dâu gạt nợ, Mị sống cuộc đời nô lệ đắng cay, tủi nhục Sống trong nhà thống lí Pá Tra, tiếng là dâu gạt nợ nhưng thực chất Mị sống cuộc đời nô lệ, đắng cay, tủi nhục. + Mị bị bóc lột sức lao động hết sức nặng nề. Nhà văn sử dụng phép liệt kê để miêu tả : “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì lên nương bẻ bắp”. và dù là khi hái củi hay lúc bung ngô, “lúc nào cũng phải gài bó đay ở cánh tay để tước thành sợi.” Như vậy, Mị bị tước đoạt tất cả thời gian, tất cả sức lực, phải làm việc của cả hai người trong một lúc. Mị không được coi là người mà chỉ là một công cụ làm giầu cho nhà thống lí. Chỉ qua vài câu trần thuật và hình ảnh so sánh đậm sắc thái Tây Bắc: “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi, Mị tưởng mình cũng là con trâu con ngựa”, nhà văn đã khiến người đọc rơi nước mắt vì số phận đau thương của Mị. + Không chỉ bị bóc lột sức lao động nặng nề, Mị còn bị A Sử đánh đập dã man, tàn bạo: Mị vừa định đi chơi ngày tết mùa xuân liền bị A Sử trói đứng vào cây cột trong buồng. Sáng ra phải lên rừng hái lá thuốc xoa bóp cho hắn, mệt quá, thiếp đi, Mị liền bị A Sử lấy chân đạp vào mặt. Đêm đông không ngủ được, ngồi sưởi lửa, Mị bị A Sử đi chơi về đạp ngã dúi xuống bên cạnh Chỉ vài chi tiết tả thực tiêu biểu, TH đã khiến người đọc xót xa hình dung ra mối quan hệ của Mị và A Sử: Một nô lệ khốn khổ và một bạo chúa hung tàn mất hết nhân tính. + Mặt khác, Mị còn bị tước đoạt mọi quyền tự do chính đáng: Những đêm tình mùa xuân, tất cả mọi người có vợ, có chồng rồi đều được đi chơi. Mị vừa có ý định đi chơi lập tức bị A Sử trói đứng vào cây cột trong buồng, tóc dài xõa xuống, A Sử quấn luôn lên cây cột khiến suốt đêm đau nhức, nước mắt chảy ra mà không lau đi được. Mị phải sống như tù giam lỏng trong căn buồng mà cửa sổ bằng lòng bàn tay suốt ngày nhìn ra chỉ thấy một màu “nhờ nhờ trăng trắng không biết là sương hay nắng”. Mị cũng như tất cả phụ nữ Tây Bắc bị sức mạnh thần quyền áp chế về tinh thần, bị bắt “cúng trình ma” khiến họ suốt đời bị trói buộc trong nhà chồng. Như vậy, số phận Mị thực chất là số phận nô lệ, đắng cay, tủi nhục bị chà đạp cả thể xác lẫn tinh thần. Chính kiếp đời nô lệ đau thương đã biến Mị từ một cô gái trẻ trung, yêu đời trở thành con người cam chịu, nhẫn nhục thậm chí vô cảm lúc nào “mặt cũng cúi xuống”, cũng “buồn rười rượi”, Mị “sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” và “tưởng mình cũng là con trâu con ngựa”. * Số phận A Phủ. - Cùng với số phận của Mị là số phận của A Phủ. A Phủ là đứa trẻ mồ côi, yêu cuộc sống tự do, thật thà, chất phác, lao động giỏi. Chỉ vì dám phản kháng đánh lại A Sử, con trai quan thống lí mà A Phủ bị bắt, bị xử kiện, một kiểu xử kì quái chỉ có ở Tây Bắc. Kết quả là A Phủ bị đánh đập, bị phạt một trăm đồng bạc trắng và trở thành con nợ truyền kiếp trong nhà thống lí Pá Tra. - Đi chăn bò, hổ vồ mất một con, lập tức A Phủ bị trói đứng vào cây cột giữa sân, phơi nắng, phơi sương suốt ba ngày đêm. Như vậy, cũng như Mị, số phận của A Phủ cũng là số phận nô lệ đầy máu và nước mắt! - Cuộc đời A Phủ bổ sung cho cuộc đời Mị làm nổi bật bức tranh hiện thực đau thương của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách chúa bản cùng niềm xót xa cảm thông của nhà văn. - Tuy nhiên, bằng tấm lòng nhân ái và cái nhìn biện chứng, Tô Hoài đã đem đến cho người đọc niềm tin tưởng vào sức phản kháng của nhân dân khi cuối cùng Mị và A Phủ đã vùng lên tự giải phóng cho mình và đến với cách mạng. c. Truyện ngắn “VCAP” còn phản ánh chân thực bức tranh sinh hoạt giàu chất thơ, giàu bản sắc văn hóa dân gian Tây Bắc. Bức tranh đó hiện lên qua không khí đêm tình mùa xuân. Đó là khung cảnh giàu chất thơ, giàu sắc thái Tây Bắc. Không khí đó hiện lên với hình ảnh những chiếc váy áo mới sặc sỡ như những cánh bướm, thanh niên, trẻ con tụ tập chơi đánh pao, đánh quay, ném còn đặc biệt là âm thanh tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình. Mày có con trai con gái rồi 8 Mày đi làm nương Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu. 5. Giá trị nhân đạo a. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” thể hiện niềm xót thương cảm thông sâu sắc với những số phận bị chà đạp, đọa đầy như Mị, A Phủ và tiếng nói tố cáo giai cấp thống trị tàn bạo như cha con thống lí Pá Tra của nhà văn * Tô Hoài tố cáo mãnh mẽ tội ác của cha con thống lí Pá Tra: - Lợi dụng sức mạnh cường quyền và sự mê tín của nhân dân, giam giữ các cô gái suốt đời phải làm nô lệ trong nhà chồng ( Mị bị bắt làm dâu gạt nợ). - Bóc lột sức lao động của Mị một cách tàn nhẫn. - Cho vay nặng lãi, khiến cha mẹ Mị hết cuộc đời vẫn không trả được nợ. - Đánh đập Mị và A Phủ dã man, tàn bạo. * Tô Hoài bày tỏ niềm cảm thông xót thương vô hạn đối với những số phận của nhân dân bị áp bức bóc lột, bị chà đạp dã man, tàn bạo: - Số phận của Mị: + Từ một cô gái trẻ đẹp, tài hoa, hiếu thảo chỉ vì cha mẹ nợ bạc trắng nhà thống lí không trả được mà bị bắt làm dâu gạt nợ. + Mang tiếng là dâu gạt nợ nhưng thực chất Mị sống cuộc đời nô lệ đắng cay, tủi nhục bị áp bức chà đạp cả thể xác lẫn tinh thần: Nhà văn xót xa khi Mị bị bóc lột sức lao động hết sức nặng nề: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì lên nương bẻ bắp”. và dù là khi hái củi hay lúc bung ngô, “lúc nào cũng phải gài bó đay ở cánh tay để tước thành sợi.” Nhà văn đau đớn khi Mị bị A Sử đánh đập dã man, tàn bạo không cần lí do: Mị vừa định đi chơi ngày tết mùa xuân liền bị A Sử trói đứng vào cây cột trong buồng; Sáng ra phải lên rừng hái lá thuốc xoa bóp cho hắn, mệt quá, thiếp đi, Mị liền bị A Sử lấy chân đạp vào mặt; Đêm đông không ngủ được, ngồi sưởi lửa, Mị bị A Sử đi chơi về đạp ngã dúi xuống bên cạnh Nhà văn còn đau xót khi Mị bị tước đoạt mọi quyền tự do chính đáng: Những đêm tình mùa xuân, tất cả mọi người có vợ, có chồng rồi đều được đi chơi. Mị vừa có ý định đi chơi lập tức bị A Sử trói đứng vào cây cột trong buồng. Mị cũng như tất cả phụ nữ Tây Bắc bị sức mạnh thần quyền áp chế về tinh thần, bị bắt “cúng trình ma” khiến họ suốt đời bị trói buộc trong nhà chồng. - Số phận của A Phủ: Không chỉ xót thương cho Mị, Tô Hoài còn xót thương cho số phận của A Phủ. + Vì dám đánh lại A Sử, A Phủ bị trói đem về, bị thanh niên trong bản, theo lệnh thống lí, lần lượt lên kể tội, đánh đập rồi bị phạt một trăm đồng bạc trắng. Không có tiền nộp phạt, người thanh niên yêu tự do lập tức trở thành nô lệ truyền kiếp. + Đi chăn bò không may hổ vồ mất một con, A Phủ liền bị trói đứng suốt ba ngày đêm ngoài trời giữa mùa đông giá rét. Số phận nô lệ đau thương của Mị và A Phủ là bản cáo trạng về tội ác của giai cấp thống trị, là tiếng nói xót thương vô hạn của nhà văn với cuộc đời. b. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” phản ánh sự khám phá, phát hiện và tin tưởng của Tô Hoài vào bản chất tốt đẹp của nhân dân lao động, đặc biệt là sức sống, khát vọng sống tự do, khả năng phản kháng tự giải phóng của họ qua Mị và A Phủ: * Nhà văn ca ngợi vẻ đẹp siêng năng, cần cù, hiếu thảo, tài hoa của nhân dân qua Mị. * Nhà văn còn ca ngợi khát vọng sống tự do của nhân dân: - Mị xin cha “đừng bán con cho nhà giàu”. - A Phủ bị người làng bắt đem đi đổi muối ở làng dưới, cậu bé trốn về Hồng Ngài sống cuộc 9 sống tự do bằng sức lao động của mình. * Niềm tin của nhà văn vào sức sống, khả năng phản kháng tự giải phóng của nhân dân: - Qua nhân vật Mị: + Sự vùng lên của Mị trong Đêm tình mùa xuân: Mị trước khi bị trói đứng: Mị uống rượu, “uống ực từng bát” như muốn nuốt đi tất cả nỗi cay đắng, muốn chôn vùi tất cả quãng đời đau thương Âm thanh tiếng sáo đánh thức sức sống trong Mị: Giữa lúc Tâm trạng cay đắng, đau thương âm thanh tiếng sáo tiếng hát gọi bạn tình xuất hiện “cứ văng vẳng bên tai” Thế rồi men rượu ấm nồng hòa cùng men tình đắm say tạo thành chất men đặc biệt lay gọi sức sống tạm thời ngủ quên trong Mị, đánh thức hồi ức tươi đẹp của Mị trước đây: Mị nhớ ngày trước Mị “thổi lá cũng hay như thổi sáo, trai làng biết bao người mê, ngày đêm đi theo Mị ”. Mị ý thức mình còn trẻ, có quyền hưởng tự do, hạnh phúc. Mị so sánh: Bao nhiêu người có vợ có chồng rồi cũng đi chơi huống chi Mị và A Sử “không có lòng mà vẫn phải ở với nhau”. Hình ảnh A Sử, bóng đêm đen tối kéo Mị trở lại đối diện với hiện thực đau thương tủi nhục chỉ toàn nước mắt. Mị nghĩ “nếu có nắm lá ngón Mị sẽ ăn cho chết ngay” bởi Mị đã thức tỉnh, Mị không thể chấp nhận kiếp đời nô lệ xót xa, cay đắng này! Thật kì diệu! Lá ngón không có mà âm thanh tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình lại kịp thời xuất hiện nâng đỡ tâm hồn cô: Anh ném pao, em không bắt Em không yêu quả pao rơi rồi Mị lại bồi hồi tha thiết! Khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc trào dâng thôi thúc Mị hành động: Mị thắp đèn cho sáng ; Mị lấy váy áo mới để chuẩn bị đi chơi. Mị trong đêm bị trói đứng: A Sử trở về trói đứng Mị vào cây cột trong buồng. Nhưng sự dã man tàn bạo chỉ trói được thể xác mà không thể trói được khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc đang trào dâng trong cô. Mị quên hẳn thực tại đau khổ. Tâm hồn cô bay bổng cùng âm thanh dìu dặt của tiếng sáo, tiếng hát gọi bạn tình. “Mị vùng bước đi”. Thật xót xa! Chính hành động biểu hiện khát vọng tự do, hạnh phúc mãnh liệt lại kéo Mị trở lại đối diện với hiện thực nô lệ đen tối, tủi nhục. Mị thấy chân tay đau nhức, Mị thổn thức, cay đắng xót xa nhận thức “mình không bằng con ngựa”! Đến gần sáng, Mị chợt nhớ tới câu chuyện người đàn bà bị chồng trói đứng cho đến chết trước đây, trong căn nhà này. Sợ quá, Mị cố cựa thật mạnh xem mình còn sống hay chết. Điều này chứng tỏ Mị vẫn khao khát sống. + Sự vùng lên của Mị trong đêm cắt dây cởi trói cho A Phủ: Lúc đầu nhìn A Phủ bị trói đứng, nhà văn miêu tả Mị: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi.” Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Trái tim cô dường như đã giá băng, tâm hồn cô trở nên vô cảm, kết quả đau thương của kiếp đời nô lệ! Đúng lúc đó, dòng nước mắt chảy dài trên hai gò má xạm đen của A Phủ xuất hiện tác động sâu sắc tới Mị, đưa Mị từ quên sang nhớ, từ vô cảm sang cảm xúc dồn dập. Mị nhớ cảnh mình bị trói đứng trước đây nước mắt chảy ra mà không lau đi được. Mị thương mình, thương A Phủ: “Cơ chừng này chỉ đêm nay, đêm mai là người kia sẽ phải chết. Chết đau! Chết đói! Chết rét! Phải chết!” Mị căm thù cho con thống lí Pá Tra: “Cha con chúng thật độc ác!” Tình thương và lòng căm thù sâu sắc đã tạo cho Mị một sức mạnh kì diệu, Mị cầm dao cắt dây cởi trói cho A Phủ mà không hề sợ hãi. Sau khi cởi trói cho A Phủ, đối diện với hiện thực mình 10
Tài liệu đính kèm: