Chuyên đề: Ngục trung nhật kí - Đề 2: Phân tích bài thơ “Cảnh chiều hôm” của Hồ Chí Minh

Chuyên đề: Ngục trung nhật kí - Đề 2: Phân tích bài thơ “Cảnh chiều hôm” của Hồ Chí Minh

Đề 2: Phân tích bài thơ “Cảnh chiều hôm” của Hồ Chí Minh

* Dàn bài chi tiết

- Cảnh chiều hôm là bài thơ hay có một phong cách riêng độc đáo. Có thể nói đa số các bài

thơ trong tù được xây dựng và cấu tứ từ chất liệu hiện thực trực tiếp của cảnh tù đày. Riêng trong

bài Cảnh chiều hôm cái thực quyện hòa với cái ảo, trí tưởng tượng của nhà thơ đã xây dựng một tứ

thơ sáng tạo với nhiều ý phong phú và kín đáo. Nhận xét về bài thơ, Xuân Diệu viết: “Có những câu

có thể coi là quá giản dị nhưng tại sao tôi đọc đi đọc lại vẫn cứ thấy một cái gì trong đó mà mình rút

chưa hết, ví dụ như bài Cảnh chiều tối: Hoa hồng nở rồi rụng”.

pdf 2 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1349Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề: Ngục trung nhật kí - Đề 2: Phân tích bài thơ “Cảnh chiều hôm” của Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Chuyên đề 9: NGỤC TRUNG NHẬT KÍ 
Đề 2: Phân tích bài thơ “Cảnh chiều hôm” của Hồ Chí Minh 
* Dàn bài chi tiết 
 - Cảnh chiều hôm là bài thơ hay có một phong cách riêng độc đáo. Có thể nói đa số các bài 
thơ trong tù được xây dựng và cấu tứ từ chất liệu hiện thực trực tiếp của cảnh tù đày. Riêng trong 
bài Cảnh chiều hôm cái thực quyện hòa với cái ảo, trí tưởng tượng của nhà thơ đã xây dựng một tứ 
thơ sáng tạo với nhiều ý phong phú và kín đáo. Nhận xét về bài thơ, Xuân Diệu viết: “Có những câu 
có thể coi là quá giản dị nhưng tại sao tôi đọc đi đọc lại vẫn cứ thấy một cái gì trong đó mà mình rút 
chưa hết, ví dụ như bài Cảnh chiều tối: Hoa hồng nở rồi rụng”. 
 - Trong Nhật kí trong tù, tác giả ít có điều kiện nói về các loài hoa. Người yêu vẻ đẹp của 
thiên nhiên tạo vật trong đó có vẻ đẹp của hoa. Trên đường bị áp giải, hương hoa của đồng nội, rừng 
núi có sức hấp dẫn riêng: 
“Mặc dù bị trói chân tay, 
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng, 
Vui say, ai cấm ta đừng, 
Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu” 
(Trên đường) 
 Bông hồng là đóa hoa duy nhất nở trong cảnh ngục tù. Sau này trong những bài thơ ở rừng 
Việt Bắc. Người có nhiều điều kiện nói về các loài hoa hơn, những bông hoa đẹp của rừng núi trong 
đêm trăng: 
“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” 
 rồi hoa nở bên bàn làm việc: 
“Phê văn hoa núi ghé nghiên soi” 
 Bài thơ Cảnh chiều hôm mở đầu bằng ý thơ: “Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng”. Hoa tượng 
trưng cho cái đẹp của thiên nhiên tạo vật nhưng cái đẹp của hoa thường không bền vững. Hoa nở rồi 
tàn phải chăng ý thơ nói lên sự trôi chảy của thời gian. 
 Hiện tượng thiên nhiên đó đã gợi bao cảm xúc ở các nhà thơ. Thương tiếc cho những kiếp 
hoa sớm nở rồi tàn thường là chủ đề quen thuộc của thơ ca cổ kim Đông Tây. Đỗ Phủ trong bài 
Khúc Giang đã viết: 
“Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân” 
(Một cánh hoa rơi làm giảm vẻ xuân) 
 Trong bài thơ Xuân về, Lưu Trọng Lư viết: 
“Vườn sau oanh giục giã 
Nhìn ra hoa đua nở 
Rồi ngày lại ngày 
Sắc màu phai 
Lá cành rụng” 
 Xuân Diệu than thở: 
“Ờ nhỉ sao hoa lại phải rơi” 
(Ý thu) 
 Trong ý bao quát của những câu thơ đầu, Hồ Chí Minh như muốn nói lên sự cảm thông và 
xót xa với cảnh hoa tàn, cái đẹp thường gặp phải sự thờ ơ, lạnh nhạt, tạo hoá như vô tình với kiếp 
hoa nở rồi tàn. Gắn liền với điều kiện xã hội cụ thể và khung cảnh của nhà tù lại càng thấy số phận 
như nghiệt ngã hơn.Nhà tù không có đất cho sự nẩy nở của những gì tốt đẹp, cái đẹp càng trở nên 
cô đơn, không tìm thấy sự gặp gỡ tri kỉ nào: 
“Hương hoa bay thấu vào trong ngục 
Kể với tù nhân nỗi bất bình”. 
 Hoàn cảnh đã đẩy sự việc đến tình thế khốn cùng, chán nản. Tác giả đã nhân hóa và bông 
hoa có tiếng nói sâu sắc hơn. Trong bài thơ bông hồng trở thành đối tượng chính để cảm nhận, để 
luận bàn. Tứ thơ đã phát triển qua những tưởng tượng bất ngờ và sáng tạo. Có lẽ nào giữa cảnh trời 
đất này cái đẹp lại không tìm thấy người tri kỉ. Và quả là “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương 
cầu”, bông hoa không đến được qua nâng niu tay cầm và làn hương đã tìm đến người tri kỉ trong 
cảnh ngục tù. Người chiến sĩ cách mạng đang đấu tranh cho tự do cũng chính là người biết bảo vệ 
cái đẹp và thấu hiểu những nỗi niềm của bông hoa hương sắc, bài thơ có cấu tứ lạ. Sự phát triển của 
tứ thơ hoàn toàn dựa vào những tưởng tượng giàu chất thơ. Có thể nói bản chất thi sĩ bộc lộ rất rõ 
qua sáng tác này. 
 - Bài thơ có hai hình ảnh: Bông hồng và người chiến sĩ cách mạng. Hai đối tượng cũng có 
mối tương đồng về cảnh ngộ và phẩm chất. Bông hồng hương sắc rơi vào cảnh cô đơn và bị cuộc 
đời lạnh nhạt vô tình. Người chiến sĩ cách mạng phải chịu cảnh ngục tù. Phải chăng người chiến sĩ 
cách mạng cũng như bông hồng hương sắc đang chịu cảnh phai tàn dần trước thời gian đang trôi 
qua một cách uổng phí? 
(Theo Đề thi tuyển sinh và hướng dẫn làm bài thi-NXB Giáo dục,1994) 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvantap9-de2.pdf