Chất thơ bao quanh tác phẩm văn chương và cuộc đời nghệ sĩ Nguyễn Tuân như một "huyền sử". Có thể cảm nhận Vang bóng một thời như một bài thơ, - một bài thơ với những nhịp mạnh xen lẫn những nhịp nhẹ, với những trùng điệp day dứt, những rung động mãnh liệt hay nhẹ nhàng, toả lan thành những đợt sóng dữ và những làn sương mờ. Vang bóng., mang chất thơ của một thời kỳ lịch sử quyết liệt, được biểu hiện bằng những nhịp mạnh, - những buổi chiều máu lửa, những va chạm dữ dội; của những giấc mơ trong sáng, thanh khiết được diễn đạt bằng những nhịp nhẹ, - sương khói mờ ảo của chén trà sương, nắng chiều tàn; của những cảnh tưởng tượng thần tiên hay ma quái, - những oan hồn xõa tóc, những màu vàng ghê sợ, đỉnh non cao huyền bí. Có thể thấy ở Vang bóng một thời ba mô týp nghệ thuật, tạm gọi là "mô týp buổi chiều máu", "mô týp sương mờ" và "mô týp Liêu Trai". "Vang bóng" là chất thơ bao trùm ba mô týp trên; "một thời" chỉ rõ một thời kỳ lịch sử cụ thể, "lúc giao thời". Nguyễn Tuân, con người lãng tử, khí phách, độc lập ấy, đã nhìn sâu vào lịch sử bằng con mắt nghệ sĩ, tìm thấy một phương diêïn cái đẹp, cái hào hùng và cái thuần bóng một thời.
Chất thơ trong "Vang bóng một thời" của Nguyễn Tuân G.S Đỗ Đức Hiểu Chất thơ bao quanh tác phẩm văn chương và cuộc đời nghệ sĩ Nguyễn Tuân như một "huyền sử". Có thể cảm nhận Vang bóng một thời như một bài thơ, - một bài thơ với những nhịp mạnh xen lẫn những nhịp nhẹ, với những trùng điệp day dứt, những rung động mãnh liệt hay nhẹ nhàng, toả lan thành những đợt sóng dữ và những làn sương mờ. Vang bóng..., mang chất thơ của một thời kỳ lịch sử quyết liệt, được biểu hiện bằng những nhịp mạnh, - những buổi chiều máu lửa, những va chạm dữ dội; của những giấc mơ trong sáng, thanh khiết được diễn đạt bằng những nhịp nhẹ, - sương khói mờ ảo của chén trà sương, nắng chiều tàn; của những cảnh tưởng tượng thần tiên hay ma quái, - những oan hồn xõa tóc, những màu vàng ghê sợ, đỉnh non cao huyền bí. Có thể thấy ở Vang bóng một thời ba mô týp nghệ thuật, tạm gọi là "mô týp buổi chiều máu", "mô týp sương mờ" và "mô týp Liêu Trai". "Vang bóng" là chất thơ bao trùm ba mô týp trên; "một thời" chỉ rõ một thời kỳ lịch sử cụ thể, "lúc giao thời". Nguyễn Tuân, con người lãng tử, khí phách, độc lập ấy, đã nhìn sâu vào lịch sử bằng con mắt nghệ sĩ, tìm thấy một phương diêïn cái đẹp, cái hào hùng và cái thuần bóng một thời. Trong tiếng thơ ngân dài của tập truyện văn xuôi này, chữ Người tử tù, Một đám bất đắc chí, Ngôi mả cũ, là những nhịp điệu dằn dữ, hằn lên những âm thanh, màu sắc, những cảnh tượng dữ dội, những khuôn mặt sắc đanh, những cử chỉ ngang tàng. Ông Huấn Cao, con người bất khuất, suốt đời không hề viết chữ "vì ngọc vàng hay quyền thế" , một đêm, đã "cho chữ người quản ngục, một tấm lòng trong thiên hạ". Trong một không gian khác thường, - một phòng giam chật chội, đầy mạng nhện và tổ rệp, ẩm ướt; ở một thời gian khác thường, - một đêm khuya tịch mịch, chỉ có tiếng mõ cầm canh vẳng lại; một bó đuốc rực cháy khói lửa mịt mù như một đám cháy, ba con người chụm đầu trên một tấm lụa bạch, là một cảnh tượng hùng tráng; người quản ngục khúm núm căng phiến lụa, thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực; ông Huấn Cao, chân vướng xiềng, viết những chữ vuông tươi tắn, những tung hoành trên lụa trắng "nói lên hoài bão của một đời con người". Khí tiết ông Huấn Cao, thiên lương viên quản ngục, và thầy thơ lại, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, biến cái không gian nhơ nhớp của lịch sử bạo lực, thành ngọn lửa rực sáng, thành hương thơm bốc toả từ chậu mực, lấn át cái âm u, lạnh buốt của nhà tù. Cũng như vậy, truyện Ngôi mả cũ gợi lại, qua vài nét chấm phá, một trang lịch sử hào hùng và bi kịch lúc giao thời. Trong không khí buồn bã của cảnh sống thanh bạch, vớiký ức "màn trời chiếu đất", cô Tú, cậu Chiêu, con gái và con trai cụ Án, người cùng binh mã Cờ Đen đánh giặc, nhớ đếùn những nét chữ của cha "có gân có mác", những nét sổ "thẳng và khoẻ". Trong cái cảnh cô đơn, cô Tú dệt vải, dưới vầng trăng khuyết; trăng tròn, lại khuyết trên đầu ngọn tre, trong cái cảnh cậu Chiêu mặc áo trắng thấp thoáng dưới giàn bầu nậm xanh biếc, phảng phất xa xôi hình bóng cụ Hồ Viễn, với một lá cờ đen to bằng cánh buồm thuyền lớn, xuất quân lẫm liệt, thắt lưng điều; ông già cưỡi ngựa cầm cờ đen, đánh Tây, bắn súng. Bộ ba người, - cụ Hồ Viễn bao bọc trong huyền sử, cái vang bóng của một thời oanh liệt, cô Tú, cậu Chiêu giấc mơ tương lai mong chờ ngày tháng "yên ổn xanh màu ngọc bích", - bộ ba người ấy là những vang bóng đẹp một thời. Ông Huấn Cao, Cờ Đen, rồi Đề Thám trong truyện Một đám bất đắc chí ("Cai Xanh hay bàn với những người thân tín về việc ông Thám ngoài Yên Thế"): vẫn cái chất thơ mênh mang của bóng dáng người khởi nghĩa, làm nền cho hành tung, hoạt động dữ dội của đám người hảo hán, "những tay giang hồ phóng khoáng", "những khách ngang tàng" chuyên "đánh những tiếng bạc lớn". Truyện của Nguyễn Tuân thường bao gồm những cảnh miêu tả hào hùng xen lẫn những giấc mơ vời vợi. Ở truyện này, giấc mơ "Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi" của đám người "nghèo, cực, khái", "lấy tiền bạc của bọn bất nghĩa chia cho anh em khác nghèo như mình", là một giấc mơ máu lửa. Bộ ba Cai Xanh, Lý Văn, Phó Kình là những chân dung quyết liệt của ngòi bút đầy chất thơ của Nguyễn Tuân. Một trong những phương thức nghệ thuật xây dựng nhân vật của ông là bọc nhân vật bằng huyền thoại, - hoặc gợi lên bằng đôi nét chấm phá hình bóng nhân vâït qua màn sương mờ thời gian (cụ Hồ Viễn), hoặc như ở truyện Một đám bất đắc chí, nhân vật có một hào quang truyền thuyết, rồi xuất hiện chốc lát với ngón võ "bút chì", "bút dùng", hay "lá chắn" siêu phàm, tạo cho truyện âm thanh sấm động. Những ấn tượng để lại cho người đọc của các nhân vâït lịch sử ấy mang nhiều chất thơ. Người đọc không quên huyền thoại bao quanh con dao thép, hộp thuốc lào khắc hổ phù của Cai Xanh; người đọc còn như nghe thấy từ thẳm sâu lịch sử tiếng "phập" của lưỡi mai Phó Kình đánh ngã cây chuối "kêu đánh roạt", hay lưỡi mai của Lý Văn phóng xa "kêu đánh vụt". Đó là những âm thanh ghê rợn, nhọn và nặng của lịch sử giao thời. Và Bãi Sậy, với hình ảnh mười hai nghĩa sĩ bị hành hình. Một buổi chiều âm u, - trong vườn chuối, chim kêu thưa thớt. Ở đây là tàn phá, là chém giết, là những thân cây chuối đổ, là phá phách, điêu tàn. Bát Lê, đao phủ, như một con quỷ nhảy nhót, múa thanh quất giữa vườn chuối tan hoang. "Roạt, roạt, roạt" và "roạt roạt", và "một buổi chiều thu quyết đã đổi màu", và "con đường máu", và "trời chiều dữ dội", và "mây quái sợ vẽ những bức tranh mây chó" đè sát mặt đất. Và cuối cùng, một trận lốc xoáy rất mạnh, xoay vòng, lật tung cái mũ trắng trên đầu viên công xứ, quăng xuống đất. Những cảnh tả trong các truyện trên của Nguyễn Tuân, là biểu tượng của những biến động đầy bạo lực, bất chợt, phi lý, tàn bạo của một thời kỳ lịch sử đầy màu vàng hoen ố của cây hoè giữa mùa bão lụt, đầy gió thổi vào đống lửa bùng bùng, lửa kêu vù vù giữa "âm u và không quạnh". Trong hoang tàn ấy, vẳng lại những lời van xin run run của những kẻ nguyện làm "tôi tớ", "chó ngựa" cho chủ, - đao phủ Bát Lê và đao phủ Tổng đốc kiêm Đổng lý quân vụ, và cũng vẳng lại những tiếng chuông ai oán "Tùng bi li! bi li" ngân dài, thê thảm. Sử dụng nghệ thuật tả cảnh, chủ yếu là âm thanh ("roạt", "vụt", "bi li... i"), nghêï thuật xây dựng chân dung mờ ảo, Nguyễn Tuân gợi (như hoạ sĩ ấn tượng chủ nghĩa) một thời kỳ lịch sử đầy bi kịch, đầy chất thơ. Bên cạnh mô týp "buổi chiều máu" ấy, là mô týp "sương mờ". Sương mờ bao phủ nhiều truyện Vang bóng một thời; Chén trà sương, Những chiếc ấm đất, Hương cuội, Thả thơ, Đánh thơ, Đèn đêm thu... Sương mờ bao phủ những nhân vật thanh khiết, với biết bao luyến tiếc: cụ Ấm, quan Đốc, cụ Điều, cụ Tử, cụ Kép, cụ Tú, ông Ấm Hai, ông Cử Hai, cô Tú, cậu Chiêu, Mộng Liên, chú bé Ngộ Lang, cô bé Tố Tâm... mà những cái tên đã gợi một nền văn hoá xưa, thanh lịch, nay còn đó, phảng phất hương sen. Sương mờ bao phủ một rừng hoa lan; lan Tiểu Kiều, Đại Kiều, Nhất Điển, Mặc Lan, Đông Lan, Loạn Điểm, Yên Từ, Bạch Ngọc... Hương thơm toả trong những mảnh vườn thanh mộc; hương trà thơm ngát hoa sen, hoa thủy tiên, - trà Bạch Mao hầu, trà Trảm Mã, trà Vũ Di Sơn, Lý Tú Uyên... quyện lấy những trang sách Vang bóng... Trong sương huyền ảo, trong chút nắng đào, trong làn khói trà mong manh, ẩn hiện bóng hình cụ Ấm, lặng lẽ, với phong thái một triết nhân. Chén trà sương triết lý về sự sống, luận đàm về trà đạo, đầy vẻ lễ nghi trang trọng. Ấm trà ngon đượm thơ và triết lý. Phương thức nghệ thuật ở đây là hoà hợp nhịp nhàng giữa bóng dáng nhân vật và màu sắc cỏ cây, một buổi sáng mờ sương hay một buổi chiều tàn nắng: tóc bạc, lông mày bạc, áo trắng của cụ Kép như một ảo ảnh trong đám cỏ cây xanh rờn (Hương cuội). Nhà văn lựa chọn trong kho từ vựng, phong phú đáng kinh ngạc của mình những từ đẹp để ngợi ca cuộc sống trong sạch của lớp người xưa: cuộc sống tao nhã, khoáng đạt, thanh đạm, lành mạnh; đời người phong lưu, lịch sự; cử chỉ thành kính, cao quý, thuần khiết; tài và hạnh; đạm bạc vân vân. Điều đặc biệt đáng quan tâm là, trong các truyện "mô týp sương mờ" này, nhiều, rất nhiều câu văn xuôi nhịp ba của Nguyễn Tuân, là những nhịp thơ, gợi mở những chân trời ảo huyền, có thể xếp thành những câu thơ trong suốt. Đây là cảnh tả cái hỏa lò đun nước pha trà buổi sáng tinh mơ: Hòn lửa rất ngon lành trở nên một khối đỏ tươi và trong suốt như thỏi vàng đỏ tươi [...] Một chút nắng đào lóng lánh trong đám cây một chiếc lại một chiếc đang rụng lá năm cũ Từ hoa và đứùc hạnh, là tâm hồn ước mơ của Nguyễn Tuân trong buổi giao thời đầy bạo lực và phản bội này. Cái đẹp thanh cao của sự sống được biểu hiện bằng một thế giới. Không phải các truyện thuộc mô týp này chỉ gồm những nhịp nhẹ. Nhiều khi nhà văn đệm vào văn chương thanh tú của mình những nhịp mạnh, để biểu đạt cái nhơ nhớp của "thời buổi Tây Tàu nhố nhăng": những màu vàng tàn héo, những trận mưa xối xả, nhưng cơn gió xoáy; và hình ảnh ông Cử Cả, tri huyện Thọ Xương, "tâm thuật hèn kém", kẻ đem binh lính láo xược "kiểu kiêu binh", ra thăm bố ở phố Hàng Gai, là một nốt nhạc lạc điệu giữa một bản nhạc êm ả. Những trí thức "vô sở bất chí" này, những kẻ tham gia quyền lực thấm máu của hàng triệu người lương thiện này, là một khối màu nhức nhối giữa một bức họa cây cỏ ngát hương của những trí thức chân chính ngoài vòng cương toả, những trí thức trong sáng tuyệt vời, tiêu biểu cho một văn hoá sang trọng. Thời đại nào cũng vậy, ở phương Đông và phương Tây, vấn đề trí thức là một vấn đề xã hội lớn đặt ra cho loài người, từ xưa đến nay, và mãi sau này, vẫn thế. Nghệ sĩ Nguyễn Tuân là một triết gia sâu sắc. Hai truyện Trên đỉnh non Tản và Khoa thi cuối cùng thuộc "mô týp Liêu Trai", thần tiên và ma quái. Những ngày cuối của đời ông, Nguyễn Tuân dự kiến viết một bài về Liêu trai chí dự (xem Văn Nghệ số 32/1987). Liêu Trai mang tính dân gian. Hai truyện trên của Nguyễn Tuân mang tính hồn nhiên, dân dã, của Việt Nam: Đền Thượng trên núi Tản Viên, những khoa thi cuối cùng ở Truờng Nam. Cái thật và cái hư ảo thâm nhập nhau, - những người thợ mộc, thợ ngoã (cái thật) và Vương quốc thần non Tản (cái ảo) ; cái chàng, cái đục (cái thật) và mũi tên bạc, tên vàng (cái ảo). Khoá thi Mậu Ngọ, sĩ tử bì bõm trong bùn (cái thật) và người đàn bà trẻ xõa tóc gào khóc rồi cười sằng sặc, hắt nghiên mực tàu lên quyển của ông đầu xứ Anh (cái ảo). Và bên dưới cái ảo/ cái thật đó là những vấn đề xã hội rất thực: giấc mơ hạnh phúc của con người, hàng bao thế kỷ không nguôi (Trên đỉnh non Tản) và một hành động thất đức của cụ Huấn di lại cho con một ân oán khủng khiếp và dai dẳng, - món nợ máu phải trả (Khoa thi cuối cùng). Mười hai truyện trong Vang bóng một thời biểu hiện tài năng nhiều dạng của Nguyễn Tuân – Làm sống lại "một thời" đầy bạo lực của lịch sử, mà ông phủ nhận quyết liệt, ông sáng tạo những "vang bóng" của chính "thời" đó diễn đạt một phương diện sức sống của cái đẹp lúc bấy giờ, - tâm hồn thanh cao của những trí thức trong sáng như nước đọng trên lá sen thơm lành, tức là giấc mơ đẹp của chính nghệ sĩ Nguyễn Tuân.
Tài liệu đính kèm: