1. Làm quen với giải tích
Bắt đầu từ giữa lớp 11, các bạn học sinh được chính thức tiếp cận với một nội dung
toán học mới: Giải tích Toán học. Giải tích nghĩa là phân chia một vần đề phức tạp
thành những phần nhỏ hơn để hiểu tốt hơn vấn đề đó. Giải tích toán học (tiếng Anh:
mathematical analysis), còn gọi đơn giản là giải tích, là ngành toán học nghiên cứu về
các khái niệm giới hạn, đạo hàm, tích phân.
TÌM HIỂU THÊM VỀ GIẢI TÍCH – Chi Viên – 1. Làm quen với giải tích Bắt ñầu từ giữa lớp 11, các bạn học sinh ñược chính thức tiếp cận với một nội dung toán học mới: Giải tích Toán học. Giải tích nghĩa là phân chia một vần ñề phức tạp thành những phần nhỏ hơn ñể hiểu tốt hơn vấn ñề ñó. Giải tích toán học (tiếng Anh: mathematical analysis), còn gọi ñơn giản là giải tích, là ngành toán học nghiên cứu về các khái niệm giới hạn, ñạo hàm, tích phân... Nó ñược bắt ñầu ñưa vào nhà trường từ bậc trung học phổ thông có vai trò chủ ñạo trong giáo dục ñại học hiện nay. Phép toán cơ bản của giải tích là "phép lấy giới hạn". ðể nghiên cứu giới hạn của một dãy số, hàm số,... ta phải "ño" ñược "ñộ xa gần" giữa các ñối tượng cần xét giới hạn ñó. Do vậy, những khái niệm như là mêtric, tôpô ñược tạo ra ñể mô tả một cách chính xác, ñầy ñủ việc ño ñộ xa, gần ấy. Các yếu tố ñược nghiên cứu trong giải tích thường mang tính chất "ñộng" hơn là tính chất "tĩnh" như trong ñại số. Giải tích có ứng dụng rất rộng trong khoa học kỹ thuật, ñể giải quyết các bài toán mà với phương pháp ñại số thông thường tỏ ra không hiệu quả. Nó ñược thiết lập dựa trên các ngành ñại số, lượng giác, hình học giải tích và còn ñược gọi là "ngành toán nghiên cứu về hàm số" trong toán học cao cấp. Giải tích còn có một cách gọi phổ thông hơn là phương pháp tính. Lịch sử giải tích trải qua vài thời kỳ riêng biệt, chủ yếu chia thành ba giai ñoạn: cổ ñại, trung ñại và hiện ñại. Từ thời cổ ñại người ta ñã ñưa ra ý niệm về phép tính tích phân nhưng chưa phát triển thành một phương pháp có hệ thống. Phần cơ bản của phép tích phân như tính diện tích và thể tích ñược ghi nhận từ các nhà toán học Ai Cập khi họ tính ñược thể tích tứ diện vào thời ñiểm năm 1800 trước Công nguyên. Cho dù không có bằng chứng xác thực cho biết họ ñã làm cách nào nhưng theo Morris Kline trong tác phẩm "Tư tưởng toán học từ thời cổ ñại ñến hiện ñại, tập 1" cho rằng họ ñã dùng phương pháp thử và sai. 2. Phép tính giới hạn Trong Toán học, khái niệm "giới hạn" ñược sử dụng ñể chỉ giá trị mà một hàm số hoặc một dãy số tiến gần ñến khi biến số tương ứng tiến gần ñến một giá trị nào ñó. Trong một không gian ñầy ñủ, khái niệm giới hạn cho phép ta xác ñịnh một ñiểm mới từ một dãy Cauchy các ñiểm ñã ñược xác ñịnh trước. Giới hạn là khái niệm quan trọng của Giải tích và ñược sử dụng ñể ñịnh nghĩa về tính liên tục, ñạo hàm và phép tính tích phân. Khái niệm giới hạn dãy số ñược tổng quát hóa thành giới hạn của một lưới topo, và liên hệ chặt chẽ với các khái niệm giới hạn và giới hạn trực tiếp trong lý thuyết phạm trù. Nhà toán học Hi Lạp cổ ñại Archimedes (287TCN – 212TCN) là người có những ñóng góp ñầu tiên phát triển ý tưởng giới hạn ñể tính diện tích hình phẳng và tính thể tích. Công trình của Archimedes, cuốn sách The Method, ñã bị thất lạc mãi cho ñến năm 1906. Sau ñó, khoảng thế kỉ XVII, các nhà bác học người ðức G.Leibniz (1646 – 1716) và người Anh I.Newton (1643 – 1727) ñã ñộc lập và gần như ñồng thời tìm ra và phát triển những nguyên lí chung của phép tính vi tích phân, trong ñó lí thuyết giới hạn ñóng một vai trò quan trọng. Nhà toán học Pháp A.L.Cauchy (1789 – 1857) ñã có ñóng góp quan trọng cho lí thuyết giới hạn nói riêng và lí thuyết giải tích nói chung. Ông là người ñã ñưa ra ñịnh nghĩa dưới ngôn ngữ “ δ − ε ” cho khái niệm giới hạn. Nhà toán học ðức K.Weierstrass (1815 – 1897), cha ñẻ của giải tích hiện ñại, là người ñầu tiên chú ý ñến logic của giải tích và ñưa ra ñịnh nghĩa chặt chẽ cho các khái niệm liên tục ñều, nhờ ñó tìm ra các chứng minh ñầy ñủ cho ñịnh lí giá trị trung bình, ñịnh lí Bolzano - Weierstrass, ñịnh lí về sự tồn tại giá trị lớn nhất và nhỏ nhất của hàm liên tục trên một compact. Vào năm 1655, nhà toán học Anh J.Wallis (1616 – 1703) lần ñầu tiên sử dụng kí hiệu ∞ trong hai công trình Arithmetica Infinitorum và De sectionibus conicis (kí hiệu này ñược người La Mã dũng ñể chỉ số 1000, một số ñược coi là rất lớn). Kí hiệu lim. (có dấu chấm) ñược dùng ñầu tiên bởi Simon L’Huilier (1750 – 1840) vào năm 1786 trong công trình Exposition élémenteire des principes des calculs superieurs. Năm 1841, Weierstrass sử dụng kí hiệu lim (không có dấu chấm), và ñến năm 1850 thì sử dụng kí hiệu x c lim = . Kí hiệu mà chúng ta sử dụng thông dụng hiện nay x a lim → có thể ñược bắt nguồn từ nhà toán học Anh J.G.Leathem (1871 – 1923) vào năm 1905, và ñến 1908 thì nó ñược công nhận và sử dụng rộng rãi bắt ñầu từ các tác phẩm của T.J.I.Bromwich (1875 – 1929) và của G.H.Hardy (1877 – 1947). Chữ lim ñể chỉ giới hạn có lẽ liên quan tới chữ limit (tiếng Anh nghĩa là: giới hạn, cận, hạn chế). Hầu hết các vấn ñề của giải tích, cuối cùng ñều quy về bài toán giới hạn, ñấy là lí do người ta coi giới hạn là phép toán cơ bản của giải tích. 3. Phép tính vi phân Phép tính ñạo hàm, còn ñược gọi là phép tính vi phân, ñã ñược manh nha từ nửa ñầu thế kỉ XVII. Descartes (1596 – 1650), Roberval (1602 – 1675), Fermat (1601 – 1665) khi ñặt ra và tìm cách giải quyết các bài toán về tiếp tuyến của ñường cong và cực ñại, cực tiểu của hàm số ñã tiếp cận ñược ñiều “cốt lõi” của khái niệm ñạo hàm. Nhiều nhà lịch sử toán học xem Fermat là người ñi tiên phong trong việc xây dựng “phép tính vi phân”. Ông là người ñầu tiên giải quyết một số bài toán liên quan ñến vấn ñề cực trị và vấn ñề tiếp tuyến trên cơ sở các “vô cùng bé”. ðiều này không xa với khởi thuỷ của khái niệm ñạo hàm. Tuy nhiên, phải ñến nửa cuối thế kỉ XVII, các nhà toán học mới ñặt ñược nền móng vững chắc cho phép tính vi phân, mà công lao lớn thuộc về Leibniz và Newton. ðến cuối thế kỉ XVIII và ñầu thế kỉ XIX, phép tính vi phân và bạn ñồng hành của nó là phép tính tích phân (gọi chung là phép tính vi tích phân, hay phép tính giải tích) ñã ñược xây dựng hoàn chỉnh bởi Gass (1777 – 1855), Abel (1802 – 1829), Cauchy (1789 – 1857), và Weierstrass (1815 – 1897). Một trong hai ông tổ của phép tính vi phân, Newton, ñã biểu diễn ñạo hàm cấp 1 và cấp 2 bằng các kí hiệu x, xɺ ɺɺ . Ngày nay các kí hiệu ấy vẫn còn dùng trong cơ học và phương trình vật lí toán. Leibniz là người ñầu tiên ñưa ra những kí hiệu “hiện ñại” như dx, dy, 2 2 dy d y , ,... dx dx Chữ d ñược lấy từ chữ cái ñầu tiên của chữ differentiation (phép tìm vi phân, phép lấy ñạo hàm). Còn các kí hiệu chúng ta sử dụng thông dụng ở phổ thông như f '(x), f ''(x), y '''(x),... ñược ñề xuất bởi Lagrange (1736 – 1813). Kí hiệu x∆ dành cho số gia của biến số x thì xuất phát từ chữ displacement (dịch chuyển). 4. Phép tính tích phân Tích phân là một khái niệm toán học có thể hiểu như là diện tích hoặc diện tích tổng quát hóa. Tích phân và vi phân là những khái niệm cơ bản của giải tích. Mọi ñịnh nghĩa tích phân ñều phụ thuộc vào ñịnh nghĩa ñộ ño. Ví dụ, tích phân Riemann dựa trên ñộ ño Jordan, còn tích phân Lebesgue dựa trên ñộ ño Lebesgue. Tích phân Riemann là ñịnh nghĩa ñơn giản nhất của tích phân và thường xuyên ñược sử dụng trong vật lý và giải tích cơ bản. Các ứng dụng chỉ phù hợp với các ñịnh nghĩa mở rộng khác rất hiếm gặp và phức tạp ñến mức không cần thiết ñi sâu vào chi tiết ở ñây. Có hai dạng tích phân Riemann, tích phân xác ñịnh (có cận trên và cận dưới) và tích phân bất ñịnh (họ các nguyên hàm). Những phép tính tích phân ñầu tiên ñã ñược thực hiện từ cách ñây 2.000 năm bởi Archimedes, như ñã nói ở trên, khi ông tính diện tích bề mặt và thể tích khối của một vài hình như hình cầu, hình parabol và hình nón. Phương pháp tính của Archimedes rất hiện ñại dù vào thời ấy chưa có khái niệm về ñại số, hàm số hay thậm chí cách viết số dạng thập phân. Tích phân (cùng với vi phân và môn toán học của những phép tính này – giải tích) ñã chính thức ñược khám phá bởi Leibniz và Newton (hai ông tổ của phép tính vi phân, và bây giờ cũng là hai ông tổ của phép tính tích phân). Ý tưởng chủ ñạo là tích phân và vi phân là hai phép tính nghịch ñảo của nhau. Sử dụng mối liên hệ hình thức này, hai nhà toán học ñã giải ñược một số lượng khổng lồ các bài toán quan trọng trong toán học, vật lý và thiên văn học. Tích phân ñã xuất hiện ñộc lập với ñạo hàm và nguyên hàm. Việc thiết lập mối liên hệ giữa tích phân và nguyên hàm là một phát minh vĩ ñại của Newton và Leibniz, ngày nay công thức thể hiện mối liên hệ ñó ñược gọi là công thức Newton – Leibniz, và nhiều sách phổ thông [ñã] dùng công thức này ñể ñịnh nghĩa tích phân. Chúng ta cần nhấn mạnh rằng ñịnh nghĩa tích phân dưới dạng trừu tượng và kí hiệu ∫ ñược ñề xuất bởi Leibniz, còn người học trò J.Bernoulli (1654 – 1705) của ông là người khai sinh tên gọi “tích phân”. J. B. Fourier (1768–1830) khi nghiên cứu sự truyền nhiệt ñã tìm ra chuỗi các hàm lượng giác có thể dùng ñể biểu diễn nhiều hàm số khác. Biến ñổi Fourier (biến ñổi từ hàm số thành chuỗi các hàm lượng giác và ngược lại) và biến ñổi tích phân ngày nay ñược ứng dụng rất rộng rãi không chỉ trong khoa học cơ bản mà cả trong y học, âm nhạc và ngôn ngữ học. Người ñầu tiên lập bảng tra cứu các tích phân tính sẵn là Gauss (1777–1855). Ông ñã cùng nhiều nhà toán học khác ứng dụng tích phân vào các bài toán của toán học và vật lý. Cauchy (1789–1857) mở rộng tích phân sang cho số phức. Riemann (1826– 1866) và Lebesgue (1875–1941) là những người tiên phong ñặt nền tảng logic vững chắc cho ñịnh nghĩa của tích phân. Liouville (1809–1882) xây dựng một phương pháp ñể tìm xem khi nào tích phân vô ñịnh của hàm cơ bản lại là một hàm cơ bản. Hermite (1822–1901) tìm thấy một thuật toán ñể tính tích phân cho các hàm phân thức. Phương pháp này ñã ñược mở rộng cho các phân thức chứa logarit vào những năm 1940 bởi A.M.Ostrowski. Vào những năm trước thời ñại máy tính của thế kỉ XX, nhiều lí thuyết giúp tính các tích phân khác nhau ñã không ngừng ñược phát triển và ứng dụng ñể lập các bảng tra cứu tích phân và biến ñổi tích phân. Một số nhà toán học ñóng góp cho công việc này là G.N.Watson, E.C.Titchmarsh, E.W.Barnes, H.Mellin, C.S.Meijer, W.Grobner, N.Hofreiter, A.Erdelyi, L.Lewin, Y.L.Luke, W.Magnus, A.Apelblat, F.Oberhettinger, I.S.Gradshteyn, H.Exton, H.M.Srivastava, A.P.Prudnikov, Ya.A.Brychkov, và O.I.Marichev. Vào năm 1969, R.H.Risch ñã ñóng góp một phát triển vượt bậc cho các thuật toán tính tích phân vô ñịnh bằng công trình của ông về lí thuyết tổng quát và ứng dụng trong tích phân các hàm cơ bản. Phương pháp ñã chưa thể ñược ứng dụng ngay cho mọi hàm cơ bản vì cốt lõi của phương pháp là giải một phương trình vi phân khá khó. Những phát triển tiếp nối của nhiều nhà toán học khác ñã giúp giải ñược phương trình vi phân này cho nhiều dạng hàm cơ bản khác nhau, ngày càng hoàn thiện phương pháp của Risch. Trong những năm 1980 ñã có những tiến bộ mở rộng phương pháp này cho cả các hàm không cơ bản ñặc biệt. Từ thập niên 1990 trở lại ñây, các thuật toán ñể tính biểu thức tích phân vô ñịnh ñược chuyển giao sang và tối ưu hoá cho tính toán bằng máy tính ñiện tử. Máy tính ñã giúp loại bỏ sai sót con người, tạo nên khả năng tính hàng nghìn tích phân mới chưa bao giờ xuất hiện trong các bảng tra cứu. Một số phần mềm máy tính thương mại có khả năng tính biểu thức tích phân hiện nay là Mathematica, Maple, ...
Tài liệu đính kèm: