Thực hành làm văn Nghị luận xã hội

Thực hành làm văn Nghị luận xã hội

Đề 1: “Bổn phận và hạnh phúc là cốt sống cho người khác”

- Auguste de Comte -

Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận có độ dài 400 / 600 từ để bàn luận về vấn đề trên?

Gợi ý làm bài

I. Mở bài.

Trong bài thơ “Một khúc ca xuân”, nhà thơ Tố Hữu viết:

Nếu là con chim, chiếc lá

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không có trả?

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.

 

doc 12 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1706Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Thực hành làm văn Nghị luận xã hội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực hành làm văn
Nghị luận xã hội
Đề 1: “Bổn phận và hạnh phúc là cốt sống cho người khác”
- Auguste de Comte - 
Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận có độ dài 400 / 600 từ để bàn luận về vấn đề trên?
Gợi ý làm bài
I. Mở bài.
Trong bài thơ “Một khúc ca xuân”, nhà thơ Tố Hữu viết:
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả?
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
“Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” đó là một quan niệm sống đúng đắn, có tinh thần trách nhiệm, tinh thần cao thượng, đem lại niềm vui, tình yêu và hạnh phúc cho những người thân trong gia đình, những người có cảnh ngộ đáng thương trong xã hội. Một quan niệm sống đầy tinh thần nhân văn, nhân ái cao cả! Cũng chính tinh thần đó Auguste de Comte đã phát biểu “Bổn phận và hạnh phúc là cốt sống cho người khác”.
II. Thân bài.
1. Giải thích câu nói.
- Sống có bổn phận là cốt sống cho người khác: tức là một trong những trách nhiệm của mình là phải sống cho người khác, người có tinh thần trách nhiệm, sống đúng vị trí và bổn phận của mình chính là sống cho người khác: người khác ở đây được hiểu là những người thân trong gia đình, anh chị em, bà con họ hàng thân thích, những người xung quanh, những người ngoài xã hội.
- Hạnh phúc là sống cho người khác: sống cho người khác trước hết là bổn phận – mang tính trách nhiệm - nhưng cao hơn bổn phận là hạnh phúc. Được sống cho người khác là niềm vui, niềm hạnh phúc của chính mình. Đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho người khác cũng chính là đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho chính mình. 
- Vậy “Bổn phận và hạnh phúc là cốt sống cho người khác” có thể nói cách khác là: sống cho người khác chính là bổn phận và hạnh phúc của chính mình.
2. Phân tích, chứng minh, bình luận.
a. Phân tích:
- Đây là một quan niệm hoàn toàn đúng đắn và tích cực, mang tinh thần nhân ái, nhân văn, nhân đạo cao cả.
- Trước hết, sống cho người khác là một bổn phận, là trách nhiệm mà ta cần thực hiện, vì có sống cho người khác, hy sinh cho người khác, mang đến những điều tốt đẹp cho người khác,... thì người khác cũng sẽ sống cho mình, đem lai những điều tốt đẹp cho mình. Chúng ta thường nói: một người vì mọi người và mọi người vì một người cũng chính là thực hiện tinh thần câu nói của Auguste de Comte.
- Sau đó, sống cho người khác là niềm vui, hạnh phúc của chính mình, điều này còn cao hơn cả bổn phận. Trong cuộc sống, chúng ta được sống cho người mà mình yêu thương chính là điều hạnh phúc của con người. Thật bất hạnh và đau khổ thay cho những ai không có người thương yêu để mà sống cho họ, sống vì họ,...
b. Chứng minh.
- Bằng thực tiễn đời sống của bản thân, gia đình,...
+ Trong cuộc sống đời thường, trong học tập, lao động: có nhiều tấm gương sống cho người khác, cho cộng đồng.
+ Trong chiến tranh, những người lính đã hy sinh anh dũng để giành lại độc lập, tự do cho đất nước, cho nhân dân,...
+ Những người làm công tác xã hội; từ thiện, tôn giáo, khoa học chuyên biệt,...
c. Bình luận.
- Đây là câu nói có ý nghĩa giáo dục rất tích cực đối với chúng ta, đặc biệt là thế hệ trẻ ngày nay. Cần phát huy những tác động tốt ấy đến với mọi người xung quanh.
- Tuy vậy vẫn còn có nhiều người trong cuộc sống, lao động, học tập và công tác lại chỉ sống cho riêng mình. Đó là lối sống ích kỉ cần phê phán, cần phải thay đổi.
3. Mở rộng.
III. Kết bài.
Khẳng định sự đúng đắn, những tác động tích cực, ý nghĩa, giá trị, tác dụng giáo dục câu nói của Auguste de Comte.
Bài học đối với bản thân và những người khác.
Đề 2. “Các điều chúng ta biết chỉ là một giọt nước. Các điều chúng ta không biết là cả một đại dương” (Newton)
Anh/chị hãy viết một bài văn nghị luận có độ dài 400/600 từ để bàn luận về vấn đề trên?
Gợi ý bài làm
I. Mở bài.
Kho tri thức về tự nhiên, xã hội của con người ngày nay là một đại dơưng bao la. Nhưng những gì mà con người chưa khám phá ra còn nhiều hơn gấp ngàn lần những điều ta biết. Cho dù chúng ta học trong nhà trường và ngoài xã hội có nhiều đến đâu thì những điều ta biết vẫn là bé nhỏ so với biển trời kiến thức mà nhân loại đã có được và chưa có được. Chính vì thế mà nhà bác học nổi tiếng I.Newton đã phát biểu thật đúng rằng: “Các điều chúng ta biết chỉ là một giọt nước. Các điều chúng ta không biết là cả một đại dương”.
II. Thân bài.
1. Giải thích câu nói.
- “Các điều chúng ta biết chỉ là một giọt nước”: có nghĩa là, muốn nhấn mạnh đến những hiểu biết của chúng ta về những gì nhân loại đã khám phá, tìm hiểu về vũ trụ, tự nhiên, xã hội loài người cũng chỉ bằng một giọt nước trong đại dương bao la. Một giọt nước là quá nhỏ bé so với cả đại dương mênh mông bao la. Vậy những điều mà chúng ta biết là vô cùng hạn chế, ít ỏi so với những điều ta chưa biết.
- “Các điều chúng ta không biết là cả một đại dương”: có nghĩa là, muốn nhấn mạnh đến những gì mà chúng ta chưa biết, không biết về vũ trụ, trái đất, tự nhiên và xã hội còn rất nhiều như là cả một đại dương mênh mông bao la. So với một giọt nước thì đại dương là quá to lớn. Vậy những điều mà chúng ta chưa biết, không biết còn rất nhiều so với những gì mà chúng ta đã biết.
- Sự đối lập giữa điều đã biết chỉ là 1 giọt nước còn những điều chưa biết là cả một đại dương bao la đã là một động lực rất lớn để thôi thúc chúng ta khám phá, tìm hiểu về vũ trụ, tự nhiên và xã hội. Đây là một vấn đề lớn mà chúng ta cần phải nhìn nhận thật rõ ràng và để có những hành động cụ thể như học tập, nghiên cứu, tìm hiểu trong các ngành khoa học tự nhiên cũng như xã hội.
2. Phân tích, chứng minh, bình luận.
a. Phân tích.
- Bằng thực tiễn trong học tập, nghiên cứu và công tác của chúng ta. Khi ta càng học tập, khám phá ra những điều mới mẻ trong đại dương bao la kiến thức của nhân loại thì ta lại càng thấy những điều ấy còn quá nhỏ bé, ít ỏi và hạn chế biết chừng nào,...
- Dẫn chứng: trong khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, những vấn đề văn hoá xã hội khác,...
- Tác động của câu nói đó với việc học tập của học sinh, sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường, giảng đường đại học là rất tích cực, nó giúp cho mọi người nhìn nhận lại chính mình, về những hiểu biết của mình còn hạn chế. Để từ đó có hành động cụ thể để luôn luôn nâng cao những hiểu biết của mình và những người khác.
b. Chứng minh.
- Bằng chính bản thân mình trong quá trình học tập, nghiên cứu...
- Bằng kinh nghiệm của những người lớn tuổi,...
c. Bình luận.
- Khi ta học càng cao thì ta càng phải khiêm tốn vì cho dù những hiểu biết của ta có nhiều đến đâu cũng là quá bé nhỏ so với những điều mà chúng ta chưa biết.
- Để từ đó tránh thái độ tự mãn, tự kiêu tự đại cho rằng mình đã hiểu biết nhiều, đã giỏi rồi mà không học tập, nghiên cứu, tìm hiểu nữa...
- Vì thế V.Lênin cũng có phát biểu rằng: Học, học nữa, học mãi!
3. Mở rộng.
III. Kết bài.
Khẳng định sự đúng đắn lời phát biểu của I.Newton. ý nghĩa, tác dụng giáo dục đối với chúng ta – đặc biệt là thế hệ trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường, giảng đường đại học,...
Bài học cho bản thân, bạn bè,...
Đề 3: “Học cho rộng. Hỏi cho thật kỹ. Suy nghĩ cho thật cẩn thận. Phân biệt cho rõ ràng. Làm việc cho hết sức. Như thế mới thành người”.	
Sách Trung Dung
Anh /chị hãy viết một bài văn nghị luận có độ dài 400/600 từ để bàn luận về vấn đề trên?
I. Mở bài.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục - đào tạo là hình thành và phát triển nhân cách con người, dạy người, dạy chữ, dạy những tri thức về tự nhiên, xã hội. Vì thế mà sách Trung Dung đã dạy rằng: “Học cho rộng. Hỏi cho thật kỹ. Suy nghĩ cho thật cẩn thận. Phân biệt cho rõ ràng. Làm việc cho hết sức. Như thế mới thành người”.
II. Thân bài.
1. Giải thích vấn đề.
- Học cho rộng: là khi học ta phải học cho thật rộng, vì kiến thức là bao la như biển cả đại dương, cho nên đã học là phải tìm hiểu thật nhiều, biết cho rộng thì mới đáp ứng được việc trở thành người hiểu biết rộng.
- Hỏi cho thật kỹ: là khi học không những cần học cho rộng mà còn phải học cho sâu sắc những điều mình biết, như thế mới là học, tránh cái gì cũng biết một cách hời hợt, chỉ biết cái bề ngoài mà không hiểu cho kỹ, cho sâu sắc cái bên trong.
- Suy nghĩ cho thật cẩn thận: là trên thinh thần học cho kỹ, cho sâu thì trong quá trình học yêu cầu phải suy nghĩ cho thật kĩ, thật cẩn thận, sâu sắc vấn đề mình học.
- Phân biệt cho rõ ràng: là ta phải biết phân biệt rõ ràng giữa đúng – sai, tốt – xấu, thiện - ác, điều gì nên nói, điều gì không cần nói, việc gì nên làm, việc gì không nên làm,...
- Làm việc cho hết sức: là khi ta đã học rộng, học kĩ, suy nghĩ cẩn thận, phân biẹt rõ ràng thì cần phải làm việc cho hết sức, cho toàn vẹn, cho chu đáo. Đem hết những hiểu biết của mình mà làm việc thì hiệu quả cộng việc sẽ cao.
=> Nếu làm được như vậy thì “Như thế mới thành người”
2. Phân tích, chứng minh, bình luận.
a. Phân tích.
- Trên cơ sở của việc giải thích thì ta phân tích theo từng ý như trên, làm cho vấn đề được sáng tỏ hơn
b. Chứng minh.
- Lấy dẫn chứng từ chính bản thân mình trong quá trình học tập, nghiên cứu, tìm hiêu và trong quá trình thực hành.
- Dẫn chứng từ những người xung quanh.
c. Bình luận.
- Trong xã hội ngày nay vẫn còn nhiều người trong qua trình học tập và thực hành (học->hành) đã: học chưa rộng, hỏi chưa thật kỹ, suy nghĩ chưa cẩn thận vì thế không phân biệt được rõ đâu là đúng, đâu là sai, đâu là tốt, đâu là xấu, ... cho nên khi làm việc, khi hành động sẽ không hết sức, không đạt hiệu quả mong muốn. Và vì thế cũng chưa thành người. (tức là người đã trưởng thành về nhân cách, năng lực)
- Tất nhiên, cũng đã có nhiều người trong xã hội xưa-nay đã làm được như vậy.
3. Mở rộng.
III. Kết bài.
Khẳng định sự đúng đắn, ý nghĩa giáo dục, vai trò, tầm quan trọng và tác động của lời dạy trên đối với mọi người trong quá trình học tập, lao động, công tác...
Bài học bản thân.
Đề 4: “Học mà không suy nghĩ thì luôn luôn u tối. Suy nghĩ mà không học thì luôn luôn nghi ngờ”.
Ngạn ngữ.
	Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận có độ dài 400 / 600 từ để bàn luận về vấn đề trên?
Gợi ý làm bài.
I. Mở bài.
Sách Trung Dung đã dạy khi học thì phải: “Học cho rộng. Hỏi cho thật kỹ. Suy nghĩ cho thật cẩn thận. Phân biệt cho rõ ràng. Làm việc cho hết sức. Như thế mới thành người”. Vì thế mà câu ngạn ngữ có câu rằng: “Học mà không suy nghĩ thì luôn luôn u tối. Suy nghĩ mà không học thì luôn luôn nghi ngờ”. Quả thật, việc học rất cần có sự suy nghĩ cho thấu đáo, nếu học mà không suy nghĩ thì không hiểu được điều mình học, nhưng có suy nghĩ rồi thì lại phải học hơn nữa như thế mới tránh khỏi nghi ngờ về điều mình học.
II. Thân bài.
1. Giải thích.
- “Học mà không suy nghĩ thì luôn luôn u tối”: có nghĩa là, khi học chúng ta phải suy nghĩ về điều mình học, phải tìm hiểu cho kỹ, cho cẩn thận thì mới tránh được sự uu tối trong nhận thức. Nếu ta học mà không suy nghĩ thì sẽ luôn luôn u tối trong nhận thức, trong hiểu biết. Đó là một yêu cầu cần thiết của việc học!
- “Suy nghĩ mà không học thì luôn luôn nghi ngờ”: có nghĩa là, khi có sự suy nghĩ về việc học mà không học thì lại dẫn đến sự nghi ngờ, nghi vấn về mọi sự vật hiện tượng. Đây là một yêu càu quan trọng trong quá trình nhận thức của con người.
Vậy khi ta học về một vấn đề nào đó thì phải ... a, tác dụng giáo dục cao.
II. Thân bài.
1. Giải thích. 
“Trên bước đường thành công, không có dấu chân của kẻ lười biếng”.
Có nghĩa là, trên con đường đi đến những thành công, đến với đỉnh cao vinh quang, thắng lợi,... thì không thể có những kẻ lười biếng đi được đến đích; mà chỉ có những con người luôn chăm chỉ học tập, lao động để vượt qua mọi khó khưan thử thách, những chông gai trên đường đi,... mới đến ược thành công vinh quang. Những kẻ lười biếng, không có lòng quyết tâm vượt gian khó, không chăm chỉ lao động, nghiên cứu, học tập,... thì không thể đi đến thành công.
- Nói cách khác, cái đích cuối cùng trên con đường đi của những kẻ lười biếng, không chăm chỉ học tập, nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo, lao động,... chính là thất bại.
2. Phân tích, chứng minh, bình luận.
a. Phân tích.
- Bằng dẫn chứng cụ thể trong học tập, lao động,... của chính bản thân mình và qua những người bạn xung quanh. (theo 2 ý trên ta vừa giải thích).
+ Trong học tập: học sinh, sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường cái đích cuối cùng là tốt nghiệp được các cấp học và ra trường để có ngành nghề, tạo lập cuộc sống cho mình (vật chất và tinh thần). Nhưng nếu học sinh, sinh viên trong quá trình học tập, nghiên cứu lại lười biếng, ham chơi, không học tập một cách nghiêm túc, chăm chỉ, vượt qua những khó khăn, thiếu thốn về vật chất cũng như tinh thần thì không thể có kết quả tốt được. Ngược lại, nếu học sinh, sinh viên mà vượt qua được những khó khăn, thử thách, chăm chỉ lao động, học tập, nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo thì chắc chắn sẽ đi đến được thành công.
- Nhiều người cho rằng mình thông minh, là tài năng không cần học chăm chỉ mà chỉ cần học lướt qua, không rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo trong học tập. Đến khi vào công việc, bài học cụ thể thì không giải quyết được đúng quy trình dẫn đến sai kết quả. Cần luôn biết rằng, để trở thành thiên tài thì chỉ có 1% là tài năng bẩm sinh, còn 99% là sự lao động, mồ hôi và công sức đổ ra mới có được.
b. Chứng minh trong: học tập, lao động, nghiên cứu,...
c. Bình luận.
- Nếu chúng ta muốn có thành công thì một trong yếu tố quan trọng nhất là ta phải chăm chỉ học tập, làm việc,... thì mới có kết quả như mong muốn. 
- Trong xã hội ngày nay, thế hệ trẻ có rất nhiều người đã thành công trong học tập, lao động, công tác trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là nhờ quá trình chăm chỉ học tập, lao động, nghiên cứu,...
- Nhưng cũng có không ít người vì quá ham chơi mà sa ngã vào các tệ nạn xã hội, nhiều người đã phải trả giá rất đắt cho sự lười biếng, không chăm chỉ học tập, lao động,.. của mình.
3. Mở rộng.
III. Kết luận.
Khẳng địn sự đúng đắn, ý nghĩa, giá trị, tác động giáo dục của lời phát biểu.
Bài học cho bản thân và những người khác.
Đề 8: “Tôn sư trọng đạo”
Thành ngữ
Anh/chị hãy viết một bài văn nghị luận có độ dài 400/600 từ bàn luận về vân đề trên, nhất là đặt trong bối cảnh xã hội ngày nay?
Gợi ý bài làm
I. Mở bài.
Một trong những truyền thống tốt đẹp nhất của người Việt Nam là “Tôn sư trọng đạo”. Đó là đạo lí của những người học trò mà chúng ta cần phải trân trọng, giữ gìn và phát huy. Trong xã hội ngày nay truyền thống ấy được nhận thức, thực hành như thế nào chúng ta hãy cùng bàn luận.
II. Thân bài.
1. Giải thích.
- Tôn sư: (tôn: là tôn trọng, kính trọng và đề cao; sư: là thầy dạy học, dạy người, dạy chữ). Vậy tôn sư là người học trò thì phải biết tôn trọng, kính trọng và đề cao vai trò của người thầy trong quá trình học tập và trong cuộc sống. 
- Trọng đạo: (trọng: coi trọng, tôn trọng; đạo: đạo lí, con đường làm người, đạo đức, đạo lí truyền thống tốt đẹp của con người): Vậy trọng đạo: là người học trò phải biết tôn trọng, lễ phép, kính trọng người thầy, vì người thầy đã giảng dạy, truyền dạy cho chúng ta biết thế nào là đạo nghĩa, đạo đức, đạo học làm người và những tri thức khác về mọi mặt của đời sống tự nhiên, đời sống xã hội,...
2. Phân tích, chứng minh, bình luận.
a. Phân tích.
“Tôn sự trọng đạo” chính là một truyền thống tốt đẹp của đạo học Việt Nam, truyền thống này có từ lâu đời khi có nhu cầu truyền dạy và học tập của con người. Đề cao vai trò, tầm quan trọng của người thầy chúng ta còn biết đến những câu thành ngữ, tục ngữ, những câu nói dân gian như:
+ “Không thầy đố mày làm nên” – có nghĩa là nếu không có người thầy dạy cho ta học và làm bất cứ sự việc gì thì ta không thể học và làm được điều đó.
+ “Học thầy không tầy học bạn” – có nghĩa là: nếu học thầy mà chưa hiểu hết, chưa nắm hết được kiến thức thì học ở bạn, lúc này bạn cũng là thầy của ta.
Vì thế dân gian lại có câu:
+ “Tam nhân đồng hành tất hữu vi sư” - có nghĩa là: ba người cùng đi trên một đường, tất sẽ có người là bậc thầy của ta.
Và vì thế câu nói sau mới có ý nghĩa:
+ “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”: có nghĩa là: người dạy cho ta một chữ thì cũng là thầy, dạy nửa chữ cũng là thầy. Đây là cách nói cụ thể nhất của câu : “Tôn sư trọng đạo”.
 Và vì thế: “Trọng thầy mới được làm thầy” - có nghĩa là: nếu không tôn trọng thầy và đạo học của thầy thì không thể làm thầy thiên hạ được. Vì muốn làm thầy thì trước hết phải làm học trò. Một người học trò khi trở thành bậc thầy thì đã có biết bao người thầy đã truyền thụ kiến thức về mọi mặt – tức là làm học trò của nhiều người thầy thì sau mới có thể làm thầy giỏi được.
	Vậy nên, vì những lẽ trên, cha ông ta đã đúc gọn trong câu: “Tôn sự trọng đạo” là rất chính xác, ngắn gọn, đầy đủ ý nghĩa về vai trò, tầm quan trọng của việc tôn trọng người thầy, tôn trong đạo học.
b. Chứng minh.
- Lấy chính kinh nghiệm của bản thân mình.
- Bằng những hiểu biết về vấn đề này:
+ Chúng ta luôn tự hào với truyền thống và phẩm chất cao đẹp của các bậc thầy xưa, các thầy lớp trước mà danh tiếng lưu truyền mãi mãi.
Như thầy Lý Công Uốn đời nhà Lý, thầy Lê Văn Hưu, thầy Chu Văn An. Nguyễn Phi Khanh đời nhà Trần, thầy Trần ích Phát đời nhà Lê, thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm đời nhà Mạc. Thế kỷ XIX có thầy Cao Bá Quát, thầy Nguyễn Đình Chiểu lấy việc dạy người cao hơn dạy chữ. Đầu thế kỷ XX có thầy Nguyễn Thức Tự đã dạy dỗ học trò hầu hết thành đạt trở thành những chí sĩ yêu nước như cụ Phan Bội Châu, Ngô Đức kế, Đặng Thái Thân, Lê Văn Hân,... Chúng ta quên sao được thầy giáo Nguyễn Tất Thành người đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, cùng với các học trò xuất sắc như: Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đã làm rạng rỡ non sông đất nước ta.
c. Bình luận.
Ngày nay có rất nhiều người học trò đang ngồi trên ghế nhà trường, được học nhiều bộ môn của các thầy cô giảng dạy nhưng họ không ý thức được vấn đề cần phải tôn trọng, kính trọng, lễ phép với người thầy và coi trọng đạo học mà thầy truyền giảng. Điều ấy có nghĩa là đạo lí truyền thống không được tôn trọng, học tập...
Nhưng cũng có rất nhiều người học trò đã và đang hiểu và thực hành câu thành ngữ và cũng đang bước trên con đường thành đạt trong cuộc sống, trong khoa học,...
3. Mở rộng.
III. Kết luận.
Khẳng định sự đúng đắn, ý nghĩa, giá trị giáo dục, vai trò, tầm quan trọng và những tác động tích cực của câu thành ngữ “Tôn sư trọng đạo” .
Bài học bản thân.
Đề 9: “Lương y như từ mẫu”
	Thành ngữ.
Anh/chị hãy viết một bài văn nghị luận có độ dài 400/600 từ để bàn luận về vấn đề trên, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội ngày nay?
Gợi ý làm bài.
I. Mở bài.
Lương tâm nghề nghiệp là một vấn đề quan trọng của con người trong quá trình công tác phục vụ nhân dân, đất nước... của bất cứ ngành nghề nào. Nhưng lương tâm nghề nghiệp đòi hỏi cao nhất là ở nghề thầy thuốc khám chữa bệnh cứu sống, đem lại sức khoẻ cho mọi người. Nói cách khác trong nghề y dược thì lương tâm nghề nghiệp được đặt lên hàng đầu bởi nó liên quan trực tiếp đến sự sống và cái chết của con người. Vì thế thành ngữ có câu: “Lương y như từ mẫu”.
II. Thân bài.
1. Giải thích.
- “Lương y như từ mẫu”: có nghĩa là lương tâm của y bác sĩ, của người thầy thuốc khi chăm sóc, khám chữa bệnh cho mọi người như là người mẹ hiền từ chăm sóc, cứu chữa bệnh cho đứa con của mình. Người mẹ hiền từ chăm sóc, cưu mang, cứu chữa cho đứa con thân yêu của mình như thế nào thì những người hành nghề y dược cũng cần chăm sóc, cưu mang, cứu chữa ch bệnh nhân của mình như vậy.
2. Phân tích, chứng minh, bình luận.
a. Phân tích.
Như đã nói ở trên, lương tâm, đạo đức nghề nghiệp là một vấn đề hết sức quan trọng đối với mọi người trong bất cứ ngành nghề gì. Nhưng có lẽ đối với nghề y dược thì lương tâm, đạo đức nghề nghiệp là quan trọng hơn cả. Vì khi con người mang bệnh tật trong người thì tâm lí rất nặng nề, nếu không muốn nói là đau khổ có khi đến tuyệt vọng. Chính vì thế, người bác sĩ, y tá, hộ lí, cán bộ quản lí, nhân viên hướng dẫn,... cần có thái độ chăm sóc, điều trị một cách nhẹ nhàng, khuyên bảo, động viên an ủi, phân tích cho người bệnh thấy sự cần thiết phải điều trị như thế nào, sử dụng thuốc ra sao cho phù hợp để đi đến hiệu quả cứu chữa. Làm được như vậy có nghĩa là thực hiện được câu thành ngữ: “Lương y như từ mẫu” –bác sĩ như người mẹ hiền từ chăm sóc cho đàn con yêu dấu của mình.
b. Chứng minh.
Có rất nhiều người hành nghề y dược đã làm được điều ấy, sự tin tưởng của cộng đồng đối với họ là rất cao. Có rất nhiều “lương y” đã trở thành “từ mẫu”. Có rất nhiều người bệnh đã trở thành những đứa con yêu dấu trong vòng tay chăm sóc, cứu chữa của những người mẹ hiền từ như thế.
Các bác sĩ trong quân đội – thường xuyên khám chữa bệnh cho đồng bào các dân tộc vùng sâu vùng xa, nơi biên cương, hải đảo xa xôi.
Các y bác sĩ trong các dự án quốc gia, quốc tế đi khám chữa bệnh vì sức khoẻ cộng đồng...
(đưa một vài dẫn chứng khác mà bạn biết)
c. Bình luận.
+ Tích cực: có nhiều người đã thực sự trở thành những bác sĩ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ chăm sóc, cứu chữa cho cộng đồng rất tận tâm chu đáo và có hiệu quả được nhân dân tin tưởng... Đặc biệt là các bác sĩ, y tá ở vùng sâu vùng xa, nơi biên cương, hải đảo xa xôi,...
Trong cơ chế thị trường ngày nay, nhiều loại hình dịch vụ y tế đã được mở ra, bằng quan hệ: nhu cầu – bác sĩ tốt – tiền – khỏi bệnh đã được thiết lập (khám chữa bệnh theo yêu cầu). Đặc biệt là ở các trung tâm đô thị lớn như Hà Nội, Huế, Sài Gòn,... đã tạo ra chiều hướng tích cực tronng quá trình phục vụ nhu cầu của nhân dân.
+ Tiêu cực: 
“Lương y” phải như “từ mẫu” – có thể đó là một người nào dó dùng cách nói này để muốn nhấn mạnh đến lương tâm, trách nhiệm của các y bác sĩ. Nhưng nếu là một biển khẩu hiệu rất to ở cổng bệnh viện nào đó thì thật là tai hại. Bởi nó sẽ gây hiểu nhầm! Thành ngữ “Lương y như từ mẫu” chỉ có 5 từ. Nếu “lương y” bắt buộc phải như “từ mẫu” thì không thể được. Bởi vì, khi ta làm điều gì đó mà do bị bắt buộc phải làm thì hiệu quả sẽ không bao giờ đạt được cao nhất. Tâm lí người thực hiện công việc đó rất nặng nề và người bệnh được chăm sóc, chữa trị cũng sẽ không được thoải mái. Người bệnh đến bệnh viện gặp bác sĩ mà không thoải mái, tin tưởng thì bệnh chắc sẽ khó mà khỏi được, có khi lại còn nặng hơn!
...
3. Mở rộng.
III. Kết bài.
Khẳng định sự đúng đắn, ý nghĩa, giá trị giáo dục và sự tác động của câu thành ngữ.
Bài học cho bản thân và những người hành nghề y dược.
Đề 29: “Học, học nữa, học mãi” (V. Lê-nin)
Anh/ chị hãy nghị luận về vấn đề trên trong một bài văn 400/600 từ?

Tài liệu đính kèm:

  • docThuc hanh nlxh-12.doc