PHẦN I : MỞ ĐẦU
I / ĐẶT VẤN ĐỀ :
Hoá học là khoa học nghiên cứu về thành phần cấu tạo các chất, sự biến đổi của các chất trong đời sống, sản xuất và trong tự nhiên. Qua đó thấy được tác dụng và tác hại của chúng đối với đời sống sản xuất và con người .
Môn hoá học ở trường phổ thông giúp học sinh có những tri thức về thế giới tự nhiên xung quanh thông qua việc khảo sát các chất, sự biến đổi các chất, chu trình các chất trong môi trường xung quanh, thấy được mối liên hệ qua lại giữa hoá học môi trường và con người. Những tri thức này rất quan trọng không thể thiếu được trong hệ thống tri thức phổ thông của nhân loại. Không những thế để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của xã hội về việc đào tạo nên những con người năng động sáng tạo biết cải biến một cách linh hoạt về kiến thức tự nhiên và xã hội phục vụ cho cuộc sống của mình thì đòi hỏi môn hoá học phải hình thành cho các em những kiến thức cơ bản về hoá học như kĩ năng quan sát, kĩ năng làm thí nghiệm, kĩ năng ứng dụng kiến thức vào giải luyện tập hoá học vào trong thực tiễn cuộc sống.
Sỏng kiến kinh nghiệm mụn hoỏ học " Đổi mới phương pháp dạy học trong việc sử dụng hệ thống bài tập trong giờ luyện tập hoá học hoá học lớp 8” phần I : mở đầu I / Đặt vấn đề : Hoá học là khoa học nghiên cứu về thành phần cấu tạo các chất, sự biến đổi của các chất trong đời sống, sản xuất và trong tự nhiên. Qua đó thấy được tác dụng và tác hại của chúng đối với đời sống sản xuất và con người . Môn hoá học ở trường phổ thông giúp học sinh có những tri thức về thế giới tự nhiên xung quanh thông qua việc khảo sát các chất, sự biến đổi các chất, chu trình các chất trong môi trường xung quanh, thấy được mối liên hệ qua lại giữa hoá học môi trường và con người. Những tri thức này rất quan trọng không thể thiếu được trong hệ thống tri thức phổ thông của nhân loại. Không những thế để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của xã hội về việc đào tạo nên những con người năng động sáng tạo biết cải biến một cách linh hoạt về kiến thức tự nhiên và xã hội phục vụ cho cuộc sống của mình thì đòi hỏi môn hoá học phải hình thành cho các em những kiến thức cơ bản về hoá học như kĩ năng quan sát, kĩ năng làm thí nghiệm, kĩ năng ứng dụng kiến thức vào giải luyện tập hoá học vào trong thực tiễn cuộc sống. Phát hiện trong các em những tư duy sáng tạo, cách làm việc khoa học, tính trung thực cẩn thận niềm tin và say mê nghiên cứu khoa học. Bộ môn hoá chính thức học sinh được học từ lớp 8, mặc dù rất nhiều các sự vật hiện tượng biến đổi xung quanh ta các em đều đã được làm quen và tìm hiểu thông qua các môn học lồng ghép về tự nhiên và xã hội ở cấp 1 và qua các môn sinh học, vật lý, địa lý ở cấp II, tuy nhiên để đi sâu nghiên cứu về các chất, sự biến đổi chất và hình thành các kĩ năng cần thiết như đã nêu trên thì đó là nhiệm vụ trọng tâm của bộ môn hoá học. Chương trình học ở cấp THCS đã bố trí, thiết kế theo những mảng kiến thức từng thể loại bài học giúp học sinh đạt được mục tiêu. Song để đạt được điều đó hay không còn phụ thuộc vào rất nhiều giáo viên đứng lớp.Tôi nhận thấy giờ luyện tập hoá học là loại hình lên lớp mà đòi hỏi rất nhiều ở người giáo viên phải biết cách tổ chức thiết kế về nội dung chương trình và cách thức luyện tập như thế nào để nhằm phát huy mọi khả năng của học sinh từ những băn khoăn trên tôi xin trình bày một số ý kiến của mình khi dạy các bài luyện tập với nội dung " Đổi mới phương pháp dạy học trong việc sử dụng hệ thống bài tập trong giờ luyện tập hoá học trong chương trình hoá học lớp 8 " Phạm vi của chuyên đề : 1. Nghiên cứu các tài liệu cơ sở lý luận của việc đổi mới phương pháp dạy học, các tài liệu thiết kế các bài giảng môn hoá học và tài liệu về các hệ thống câu hỏi và bài tập phục vụ cho giảng dạy hoá học trong đó có giờ luyện tập hoá học. 2. Nghiên cứu thực tế giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh trong trường. 3. Các giải pháp thực hiện chuyên đề và có ví dụ minh hoạ kèm theo. 4. Kiểm tra đối chứng và kết quả học tập của học sinh khi thực hiện chuyên đề. 5. Lên lớp minh hoạ 1 tiết luyện tập hoá học. Phần II / Nội dung chuyên đề : & I/ Cơ sở lý luận: Để đáp ứng được các mục tiêu của môn hoá học, thì một trong những nội dung rất quan trọng trong giảng dạy hoá học nhằm giúp học sinh củng cố kiến thức, biết ứng dụng kiến thức vào thực tế, vào làm bài tập, rèn kĩ năng một cách có hệ thống, đó chính là bài tập hoá học, đặc biệt trong giờ luyện tập bài tập hoá học đã trở thành công cụ hữu hiệu để kiểm tra kiến thức, kĩ năng của học sinh. Nó giúp giáo viên phát hiện được trình độ của học sinh, làm bộc lộ những khó khăn sai lầm của học sinh trong học tập hoá học, đồng thời có biện pháp giúp học sinh vượt qua khó khăn khắc phục những sai lầm. Trong giờ luyện tập nội dung và hình thức bài tập hoá học còn là phương tiện để rèn luyện và phát triển tư duy của học sinh, giúp học sinh mở mang tầm hiểu biết thực tiễn của mình và đặc biệt với sự định hướng các phương án trong giải 1 bài tập hoá học, còn rèn cho các em phong cách làm việc có kế hoạch, có tổ chức trước khi làm việc cụ thể. Vì vậy việc lựa chọn các nội dung, các hình thức và phương án giải bài tập hoá học như thế nào trong một giờ luyện tập hoá học là một việc làm hết sức cần thiết và quan trọng của người giáo viên. II/ Cơ sở thực tiễn: 1. Những thuận lợi trong việc giảng dạy bộ môn hoá học trong đó có tiết luyện tập Hiện nay với mục tiêu đổi mới chương trình thay SGK ở các khối lớp, cấu trúc chương trình SGK đã thay đổi tạo điều kiện rất thuận lợi cho giáo viên trong quá trình giảng dạy cụ thể: các kênh chữ kênh hình đều rất rõ ràng, sống động kiến thức được tinh giản theo hướng cụ thể hoá, hệ thống bài tập hoá học trong SGK cũng đã nhiều và phong phú hơn. Đội ngũ giáo viên cũng đã được đi học các lớp thay SGK, cùng được trao đổi về một số vấn đề trong công tác giảng dạy: về SGK; về cách thiết kế 1 tiết lên lớp sao cho đáp ứng với mục tiêu bài học; về các dạng bài tập trừu tượng và khó. Các đồ dùng dụng cụ hoá chất được cấp phát kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho một tiết lên lớp của người giáo viên đạt kết quả cao. Chính vì vậy mà trong các giờ lên lớp giáo viên cũng đã chú ý hướng dẫn học sinh học tập theo hướng chủ động tìm hiểu và nắm bắt kiến thức qua quan sát thí nghiệm, làm thí nghiệm, nghiên cứu SGK và kết hợp với các hình thức hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm để hoàn thiện kiến thức. Điều này đã thực sự gây hứng thú học tập trong học sinh và thu hút các em. Bên cạnh đó đời sống người dân ngày càng cao, các em học sinh đã được phụ huynh quan tâm hơn về chất lượng học tập chính vì vậy các em tham gia tích cực hơn vào giờ học hoá. Tất cả những vấn đề trên đã là những điểm thuận lợi cho người giáo viên trong quá trình giảng dạy trong đó có tiết luyện tập. 2. Khó khăn : - Hoá học là bộ môn mới trừu tượng và khó. - Đối với giáo viên vẫn còn không ít đồng chí chưa thực sự coi trọng môn học này, nhất là với nền kinh tế hiện nay mà ngành giáo dục đang phải đối mặt với tình trạng dạy thêm học thêm tràn lan thì môn hoá học bậc THCS vẫn còn bị coi là môn học phụ nhất là từ năm học 2005-2006 ở bậc THCS chỉ xét duyệt tốt nghiệp. Tất cả những vấn đề trên cũng phần nào tạo ra tâm lý coi nhẹ môn học trong giáo viên phụ huynh và học sinh do đó chưa có sự đầu tư thường xuyên cho các tiết học đặc biệt là giờ luyện tập. - Bên cạnh đó ở một số giáo viên vẫn còn chưa bắt kịp với những kiến thức thay đổi trong SGK với các bài tập phong phú mà đòi hỏi ở người giáo viên phải nắm chắc kiến thức, định hướng được cách làm từ đó sử dụng những hình thức giảng dạy giúp học sinh thực hiện theo mục tiêu đề ra. Đặc biệt trong tiết luyện tập ở một số GV mới chỉ dừng lại ở chữa bài tập và kiểm tra kiến thức cũ của học sinh mà chưa thực sự chú ý đến tính hệ thống, rèn luyện kĩ năng giải bài tập cho học sinh. Do vậy từ hệ thống bài tập giáo viên đưa ra cho đến khâu tổ chức khai thác các bài tập đó thì mới chỉ tập trung ở một số học sinh khá giỏi do có khả năng tư duy tốt, còn học sinh trung bình yếu kém chưa xác định cách làm và kết quả không biết đúng hay sai. Chính vì thế các em thường rụt rè, thiếu tự tin và nản chí. Từ thực trạng này tôi thiết nghĩ cần phải đổi mới một số hình thức, nội dung bài tập cho phù hợp với mọi đối tượng học sinh và với chương trình đổi mới hiện nay. 3. SGK và chương trình - ở bậc THCS chương trình hoá học bắt đầu từ lớp 8 là một môn học mới mẻ với các em. Trước đây hoá 8 chỉ có 1 tiết/1 tuần, cả chương trình có 2-3 tiết luyện tập. Lượng kiến thức tương đối nhiều mà số tiết luyện tập ít, hệ thống bài tập thì nghèo nàn đơn điệu do đó đã gây khó khăn cho giáo viên và học sinh trong dạy và học bộ môn Hoá. - Theo chương trình đổi mới thay sách bắt đầu từ năm 2004-2005 chương trình SGK lớp 8 đã được đổi mới; Số tiết tăng lên 2 tiết / 1 tuần, có 8 tiết luyện tập. Như vậy học sinh đã được tăng thêm số tiết luyện tập đây là một điều kiện thuận lợi cho các em trong học tập bộ môn hoá, hệ thống bài tập trong các tiết luyện tập cũng rất nhiều, phong phú về thể loại và có chú ý những bài tập phù hợp mọi đối tượng. Từ sự thay đổi trên có thể thấy vai trò của tiết luyện tập đã được chú trọng vì vậy cần được đầu tư cho đảm bảo mục tiêu của chương trình. Mục tiêu của tiết luỵện tập đảm bảo 3 mức độ kiến thức của học sinh; biết, hiểu, vận dụng - Cụ thể : Chương trình SGK lớp 8 : Gồm 8 tiết luyện tập cho 6 chương Chương I : Chất - Nguyên tử - Phân tử : Có 2 tiết luyện tập: Hệ thống hoá kiến thức về các khái niệm cơ bản (chất, đơn chất và hợp chất, nguyên tử, nguyên tố hoá học) Củng cố cách ghi và ý nghĩa của CTHH, khái niệm hoá trị và quy tắc hoá trị. Rèn các kĩ năng: Phân biệt chất, tách chất, từ sơ đồ nguyên tử tìm ra các thành phần cấu tạo nguyên tử, viết kí hiệu nguyên tố khi biết tên, nguyên tử khối và ngược lại. Rèn kĩ năng tính hoá trị của nguyên tố, biết đúng hay sai cũng như lập được CTHH của hợp chất khi biết hoá trị. Chương II : Phản ứng hoá học; Có 1 bài luyện tập: Củng cố kiến thức về phản ứng hoá học ( định nghĩa, bản chất, điều kiện xảy ra và dấu hiệu nhận biết); định luật bảo toàn khối lượng; phương trình hoá học. Rèn kĩ năng phân biệt đựơc hiện tượng hoá học đặc biệt kĩ năng trọng tâm cần phải rèn cho học sinh đó là lập PTHH khi biết các chất phản ứng và sản phẩm. Chương III : Mol và tính toán hoá học : Có 1 tiết luyện tập mà thông qua đó học sinh biết cách chuyển đổi qua lại giữa khối lượng chất (m), số mol(n), và thể tích của chất khí (V). Biết cách xác định tỉ khối của chất khí này đối với chất khí kia và tỉ khối của chất khí đối với không khí. Có khả năng giải các bài toán hoá học đơn giản tính theo CTHH và PTHH. Chương IV. Oxi - Không khí : Có 1 tiết luyện tập nhằm củng cố hệ thống hoá kiến thức và khái niệm đã học. Củng cố các kiến thức về tính chất hoá học, ứng dụng, điều chế oxi trong phòng thí nghiệm và trong công nghiệp. Một số khái niệm hoá học mới: Sự oxi hoá, oxit, sự cháy, sự oxi hoá chậm, phản ứng hoá hợp, phản ứng phân huỷ. Rèn kĩ năng tính toán theo CTHH và PTHH Chương V : Hiđrô - Nước : Có 2 bài luyện tập củng cố hệ thống hoá các kiến thức và các khái niệm hoá học về tính chất vật lý, tính chất hoá học cơ bản của hiđrô, cách điều chế hiđrô trong phòng thí nghiệm. So sánh tính chất và cách điều chế khí hiđro so với khí oxi. Củng cố các khái niệm phản ứng thế, sự khử, sự oxi hoá, chất khử chất oxi hoá, phản ứng oxi hoá khử. Rèn kĩ năng nhận biết được phản ứng oxi hoá - khử, chất khử, chất oxi hoá trong các phản ứng hoá học, nhận biết phản ứng thế và so sánh với các phản ứng hoá hợp, phản ứng phân huỷ. Làm các bài tập có tính tổng hợp liên quan đến oxi và hiđrô. Chương VI : Dung dịch: Đây là một chương được đưa từ SGK lớp 9 cũ xuống trong chương trình này có 1 tiết luyện tập mà qua đó học sinh củng cố về độ tan, những yếu tố ảnh hưởng đến độ tan, học sinh biết ý nghĩa của C%, CM và vận dụng được công thức tính C% và CM để tính toán. Rèn kĩ năng tính toán và pha chế một dung dịch theo nồng độ cho trước. - Với mục tiêu trên hệ thống bài tập trong các tiết luyện tập cũng khá phong phú về thể loại: bài tập định tính, bài tập định lượng, bài tập tự luận, bài tập trắc nghiệm. Tuy nhiên qua thực tiễn giảng dạy và nghiên ... ch nhanh chóng và chính xác. Đồng thời hình thức này thu hút, tạo điều kiện để học sinh tìm ra các tình huống hấp dẫn để chống sự thụ động của học sinh, hơn nữa qua đây học sinh bộc lộ khả năng tự học của mỗi người. - Các bước tiến hành hình thức này tôi làm như sau: Bước 1: Giáo viên nêu rõ vấn đề, xác định nhiệm vụ chung cho cả lớp và hướng dẫn gợi ý học sinh làm việc (kiểm tra bài cũ, chữa bài tập ). Bước 2: Học sinh làm vệc cá nhân (trả lời câu hỏi của giáo viên hoặc làm bài tập vào vở bài tập, phiếu học tập) trong một thời gian nhất định. Bước 3: Giáo viên cho một vài em báo cáo kết quả, các học sinh khác nhận xét, góp ý hoặc đổi tráo bài cho nhau để kiểm tra. Bước 4: Giáo viên cùng với học sinh nhận xét và chuẩn xác kiến thức. - Yêu cầu: * Đối với thầy: + Trong qúa trình học sinh làm việc giáo viên kiểm tra đôn đốc nhắc nhở. + Thường xuyên yêu cầu học sinh báo cáo kết quả hoặc nhận xét bổ sung. + Thu phiếu học tập kiểm tra đánh gía rút kinh nghiệm. * Đối với trò + Phải độc lập tự giác học tập nghiêm túc. + Huy động được kiến thức đã học kinh nghiệm của bản thân vào việc xử lý yêu cầu của thầy. 2. Hình thức học theo nhóm - Khi gặp những bài tập, những câu hỏi hoặc những vấn đề khó, phức tạp mà hoạt động cá nhân khó có thể hoàn thành được, trong những trường hợp đó cần tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm. -Yêu cầu * Đối với thầy : + Nêu vấn đề cho học sinh thảo luận về một bài tập hoặc một chủ đề nào đó có khống chế thời gian. + Chia nhóm giao nhiệm vụ cho các nhóm. + Gợi ý cho học sinh thảo luận, điều khiển thảo luận. + Tổng kết và chuẩn xác kiến thức. *Đối với trò : +Theo sự phân công của nhóm trưởng từng cá nhân làm việc độc lập. + Trao đổi thảo luận trong nhóm và hoàn thành lời giải của nhóm vào bảng, phiếu học tập, giấy trong theo yêu cầu của giáo viên. + Cử người trình bày kết quả phần thảo luận nhóm. + Các nhóm khác theo dõi nhận xét , bổ sung. 3. Luyện tập dưới hình thức trò chơi: - Để thay đổi không khí học tập và cuốn hút mọi đối tượng học sinh thì tổ chức học dưới hình thức trò chơi rất quan trọng và có hiệu quả cao, nó kích thích tính tích cực, chủ động, tính nhanh nhẹn, nhạy bén của học sinh được phát huy cao độ. Do đó đây là một hình thức rất cần được quan tâm và giáo viên nên dành thời gian, đầu tư thiết kế trong một giờ luyện tập. - Hình thức trò chơi có thể là : +Thi đua giữa các nhóm cùng hoàn thành một phần bài tập nào đó mà giáo viên giao cho trong một thời gian nhất định. Nếu nhóm nào hoàn thành phần kiến thức đó nhanh chính xác à nhóm đó thắng tính điểm cao VD: Cùng hoàn thành sơ đồ câm về tính chất của một chất hay một số chất đã học, cùng thực hiện viết một số phương trình phản ứng thể hiện tính chất các chất nào đó đã học. + Tham gia trò chơi cùng giải một ô chữ hàng dọc nào đó mà để giải ra nó phải tìm ra các ô chữ hành ngang và đó là đáp án của một số câu hỏi hoặc bài tập có liên quan đến một số khái niệm hay tính chất nào đó cần củng cố. + Tham gia hình thức trò chơi hái hoa mà để có được bông hoa đó phải trải qua việc trả lời đúng một số câu hỏi hoặc bài tập mà giáo viên đưa ra (hình thức trò chơi được phát huy cao độ khi dạy bằng giáo án điện tử ) b. Hướng dẫn học sinh khai thác một đề toán: - Để có được hướng giải của một bài toán, học sinh cần phải biết móc xích các mối quan hệ từ các dữ kiện giả thiết đến các yêu cầu mà bài tập đề ra. Vì vậy để chủ động trong việc tìm hiểu đề bài và thiết lập được phương hướng giải, giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh sẵn các bước giải của một bài toán vì như thế sẽ làm cho học sinh mất tính chủ động, tính sáng tạo và khó phát hiện được năng lực của từng người. Các em sẽ áp dụng một cách máy móc làm một bài tập mà không tìm hiểu tại sao lại đi theo hướng này? liệu còn hướng giải nào khác? Hay bài tập có biến đổi đi một chút với bài luyện tập mẫu đó, học sinh sẽ không làm được. Do vậy nhất thiết trước một bài tập giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh xác định hướng đi bắt đầu từ sơ đồ định hướng ngược sau đó mới xây dựng thành sơ đồ định hướng xuôi. Sở dĩ tôi gọi là sơ đồ định hướng ngược vì từ những dữ kiện bài yêu cầu, học sinh sẽ phải nhớ lại các công thức, những phần kiến thức để hoàn thành yêu cầu đó rồi móc xích đến các dữ kiện giả thiết . Tôi xin đưa ra một VD sau : Bài tập 4 / 79 : Bài luyện tập 4 Có phương trình hoá học : CaCO3 + 2HCl à CaCl2 + CO2 + H2O Canxi cacbonat axit clohiđric canxi clorua khí cacbonic nước A . Tính khối lượng canxi clorua thu được khi cho 10 g canxi cacbonat tác dụng với axit clohiđric dư Trước tiên tôi hướng dẫn học sinh sẽ phải tóm tắt được đầu bài: Biết: m CaCO3 = 10g PTHH CaCO3 + 2HCl à CaCl2 + CO2 + H2O Canxi cacbonat axit clohiđric canxi clorua khí cacbonic nước _______________________________________________________________ Tính m CaCl2 =? Tôi lần lượt đặt các câu hỏi để đưa ra sơ đồ hướng giải m CaCO3 PTHH n CaCO3 =? n CaCO3 = mCaCO3 : M CaCO3 n CaCl2 =? Tính m CaCl2 =? mCaCl 2 = n CaCl2 .M CaCl2 Từ sơ đồ định hướng ngược trên để giải bài tập thì học sinh phải đi theo hướng ngược lạià theo mũi tên đi xuống. c. Đổi mới cách kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh: - Nếu như giải pháp thứ nhất là bước chuẩn bị, giải pháp thứ hai là tổ chức thực hiện thì giải pháp thứ ba là nghiệm thu kết quả của thầy và trò trong một tiết luyện tập. Nội dung kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh phải dựa trên những mục tiêu cụ thể mà bộ môn đã đề ra ở từng chương, từng phần. 1. Những câu hỏi phải bảo đảm kiểm tra được toàn diện về các mặt kiến thức, kĩ năng và tư duy của học sinh, đồng thời phải chú ý đến tính phổ thông đại trà và phân loại trình độ học sinh. Khi kiểm tra đánh giá cần chú ý . * Về kiến thức: Đánh giá việc nắm kiến thức của học sinh theo ba mức độ : Nhận biết : ghi nhớ tái hiện kiến thức Hiểu : Để giải thích, để phân tích và chứng minh 3.Vận dụng : Vận dụng kiến thức đã học để giải bài toán có tính thực tiễn * Về kĩ năng: Vận dụng kiến thức giải thích một số hiện tượng trong thực tế, kĩ năng giải bài tập hoá học. Kĩ năng tính toán và thực hành thí nghiệm * Thái độ: Bình tĩnh, tự tin, thận trọng, nghiêm túc trong quá trình làm bài tập, hoặc trả lời câu hỏi. 2. Hình thức kiểm tra - đánh giá: *Tiến hành đầu giờ hoặc trong quá trình giảng dạy, tổ chức kiểm tra theo hình thức mở rộng giao tiếp:Thầy - Trò hoặc Trò- Trò Kiểm tra hoặc trắc nghiệm Kiểm tra giấy Kiểm tra bằng cách hái hoa dân chủ . * Nâng cao chất lượng các câu hỏi kiểm tra trong tiết học và đề kiểm tra tăng tỉ lệ các câu hỏi yêu cầu tư duy tích cực, sáng tạo, chú trọng nhận xét sửa chữa các câu trả lời của học sinh. *Để kiểm tra theo hình thức tự luận với các câu hỏi mở (yêu cầu học sinh phải phân tích, chứng minh) hoặc trắc nghiệm khách quan hoặc kết hợp các hình thức trên . -Các câu hỏi kiểm tra đánh giá cần tạo điều kiện để học sinh bộc lộ được năng lực của bản thân . -Cách đánh giá không chỉ qua điểm kiểm tra đầu giờ, kiểm tra củng cố bằng câu hỏi miệng, bằng viết, bằng câu hỏi trắc nghiệm mà còn phải quan tâm tới đánh giá hoạt động học tập của học sinh trong suốt tiến trình của tiết học và kết quả học tập bộ môn. Giờ luyện tập hoá trong quá trình kiểm tra đánh giá đề phù hợp với đối tượng học sinh, chúng tôi thường sử dụng thể loại luyện tập củng cố nhận dạng kiến thức dành cho học sinh trung bình -yếu - kém, thể loại luyện tập tổng hợp thường dành cho học sinh trung bình - khá trở lên. Thực hiện như vậy sẽ động viên khuyến khích học sinh trong quá trình học tập. -Nếu học sinh hiểu sai hoặc mắc sai lầm khi tính toán thì giáo viên phải sửa chữa triệt để. IV. Kết quả: Khi triển khai chuyên đề này chúng tôi đã thực hiện bằng nhiều tiết luyện tập ở các khối lớp 8, các tiết luyện tập đều áp dụng các giảp pháp trên. Chúng tôi đều nhận thấy được một số vấn đề đáng phấn khởi sau: Học sinh : - Các em rất hứng thú trong học tập, kể cả những học sinh học chưa tốt bộ môn hoá. Tạo cho các em có niềm tin vào năng lực của chính mình. Không khí lớp học sôi nổi . - Bước đầu đã xây dựng cho học sinh phong cách say sưa tìm tòi, khám phá những điều mới, điều hay qua từng bài tập các em đã thực sự được hưởng niềm vui khi chính bản thân mình hoặc bạn bè mình tìm ra những lời giải hoặc đáp án đúng và hay. -Các kĩ năng cơ bản như: Kĩ năng viết phương trình hoá học, kĩ năng vận dụng kiến thức và giải thích một số hiện tượng trong cuộc sống vào giải các bài tập toán cụ thể, kĩ năng thực hành được nâng lên ở mức độ sâu sắc hơn. - Rèn luyện cho các em chú ý không chịu lùi bước trước khó khăn, chán nản trước bài tập khó. Giáo viên : - Góp phần nâng cao nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học cho đội ngũ giáo viên trong nhóm và đồng nghiệp . - Nâng cao chất lượng của một giờ luyện tập đáng kể, góp phần trong việc trau dồi về phương pháp và chuyên môn ngày càng tốt hơn. Lớp Sĩ số Điểm 1,2,3,4 Điểm 5,6 Điểm 7,8 Điểm 9, 10 Lớp 8B Dạy áp dụng theo chuyên đề 33 6HS 18,2 % 7HS 21,2 % 10HS 30,3 % 10HS 30,3 % Lớp 8C Dạy không áp dụng theo chuyên đề 39 10HS 25,7% 11HS 28,2% 13HS 33,3% 5HS 12,8% Trong quá trình thực hiện chuyên đề nhóm hoá chúng tôi cũng đã từng bước thực nghiệm từ thảo luận thống nhất bài soạn đến tiết dạy trên lớp cụ thể : Môn hoá học lớp 8 : + Tháng 10 /2007 Tiết 11 Bài luyện tập 1 : Giáo viên lên lớp : Bùi thị Phượng Tiết 15 Bài luyện tập 2 : Giáo viên lên lớp : Lương thị Di +Tháng 11+12/ 2007 Tiết 24 : Bài luyện tập 3 : Giáo viên lên lớp : Trần thị Năng Tiết 28 : Bài luyện tập 4 : Giáo viên lên lớp : Bùi thị Phượng Phần III. Kết luận 1. Những đánh giá cơ bản Qua chuyên đề này tôi rút ra một số vấn đề cơ bản sau + Giáo viên cần nghiên cứu kĩ mục tiêu của một bài dạy, nghiên cứu kĩ nội dung kiến thức, bài tập trong SGK và một số sách tham khảo phục vụ cho bài dạy để có được nội dung và hình thức dạy học hợp lý. + Cần chú ý tới đối tượng học sinh để từ đó có những bài tập và phương pháp thiết thực phù hợp với mọi đối tượng. + Cần dự đoán các tình huống có thể xảy ra và các giải pháp để khắc phục. Lên kế hoạch các phương án hướng dẫn học sinh tìm ra phương hướng giải cho từng dạng bài tập . Đây là một khâu hết sức quan trọng. + Chuẩn bị các đồ dùng dạy học cần thiết, các thí nghiệm dụng cụ hoá chất + Cần dự kiến thời gian cho từng phần cụ thể, phân định rõ hoạt động của giáo viên và học sinh. Trên đây là nội dung của chuyên đề mà tôi đã thực hiện và báo cáo. Với thời gian có hạn tôi xin được đóng góp một số những kinh nghiệm và suy nghĩ của mình trong quá trình giảng dạy và từ khi thực hiện chuyên đề. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí để việc giảng dạy của chúng ta trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi thực hiện chuyên đề trên. Phần IV: Tài liệu tham khảo 1. SGK Hoá 8 , SGV Hoá 8, Một số bài tập trắc nghiệm và tự luận Hoá 8 2. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy sách giáo khoa lớp 8 3. Tài liệu cơ sở lý luận của việc đổi mới phương pháp dạy học hoá học
Tài liệu đính kèm: