Sách giáo viên Ngữ văn 12 tập 1

Sách giáo viên Ngữ văn 12 tập 1

ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ

(Trích)

(2 tiết)

HÊ-MINH-UÊ

I – Mục tiêu cần đạt

Giúp HS :

– Nắm đợc bớc đầu phơng pháp sáng tác tảng băng trôi của Hê-minh-uê ; qua đó hiểu đợc sự tin tởng vào nghị lực, vào sức mạnh tinh thần và niềm kiêu hãnh về con ngời của Hê-minh-uê.

– Khám phá nghệ thuật kể chuyện độc đáo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời văn kể chuyện và lời văn miêu tả cảnh vật, miêu tả đối thoại và độc thoại nội tâm.

II – Những điểm cần lu ý

 

doc 81 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 2506Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sách giáo viên Ngữ văn 12 tập 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ông già và biển cả
(Trích)
(2 tiết)
hê-minH-uê
I – Mục tiêu cần đạt
Giúp HS : 
– Nắm đợc bớc đầu phơng pháp sáng tác tảng băng trôi của Hê-minh-uê ; qua đó hiểu đợc sự tin tởng vào nghị lực, vào sức mạnh tinh thần và niềm kiêu hãnh về con ngời của Hê-minh-uê.
– Khám phá nghệ thuật kể chuyện độc đáo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời văn kể chuyện và lời văn miêu tả cảnh vật, miêu tả đối thoại và độc thoại nội tâm.
II – Những điểm cần lu ý 
1. Về nội dung 
a) Văn bản này trích ở phần gần cuối của tiểu thuyết Ông già và biển cả. Đây là cuốn tiểu thuyết rất ngắn (khoảng 50 trang khổ SGK) nhng lại là cuốn sách quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hê-minh-uê (quyết định giải thởng Nô-ben của ông) và là tác phẩm chuyển tải thông điệp nổi tiếng nhất, đợc xem là di chúc nghệ thuật cho toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Hê-minh-uê : Con ngời ta sinh ra không phải để dành cho thất bại, con ngời có thể bị huỷ diệt chứ không thể bị đánh bại.
b) Một số t liệu để GV tham khảo :
– E. Hê-minh-uê (1899 - 1961) đợc xem là một trong hai nhà văn vĩ đại nhất Hoa Kì ở thế kỉ XX (ngời kia là W. Phốc-cơ-nơ). Ông là con thứ hai trong gia đình có sáu chị em. Thuở nhỏ, ông thờng theo cha đi săn, đi câu cá hay đi chữa bệnh cho những ngời da đỏ (cha ông là bác sĩ) trong vùng. Ông là ngời giàu nghị lực và luôn muốn thử thách khả năng chịu đựng của con ngời. Vì thế ông sung vào đội xe cứu thơng trên chiến trờng I-ta-li-a với mục đích là để hiểu rõ chiến tranh và để kiểm nghiệm bản chất của con ngời khi đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết. Kết quả, ông bị thơng, tan vỡ ảo tởng khi nhận thức đợc sự phi nghĩa của chiến tranh đế quốc. Ông về nớc với đôi chân bị thơng và sau đó là mối tình tan vỡ. Hai yếu tố này tác động sâu sắc tới sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1921, truyện ngắn đầu tiên của ông ra mắt bạn đọc (Trên miệt Mi-si-gân). Nhng phải đến năm 1926 thì tên tuổi ông mới đợc nhiều ngời biết đến với tiểu thuyết Mặt trời vẫn mọc. Cuốn sách tái hiện chân thật một thế hệ lạc lõng sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất mà ngời ta thờng gọi là Thế hệ vứt đi (hoặc Thế hệ mất mát). Tiếp đó, Hê-minh-uê cho ra mắt thiên tình sử Giã từ vũ khí (1929). Các cuốn tiểu thuyết của ông đều đạt đợc kỉ lục của sách bán chạy (best-seller). Cuộc sống của ông sung túc. Ông hào phóng giúp đỡ cho các bạn bè nghèo và ủng hộ cuộc chiến của những ngời cộng hoà chống lại phe phát xít vào những năm 1930 ở Tây Ban Nha. Ông tham dự cuộc chiến ấy với t cách là phóng viên chiến trờng. Năm 1939, Chuông nguyện hồn ai ra đời. Cuốn sách đợc Phi-đen Cát-xtrô xem là cuốn cẩm nang về chiến tranh du kích. Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, Hê-minh-uê tự trang bị tàu câu cá Pi-la của ông thành tàu do thám tàu ngầm Đức ở biển 
Ca-ri-bê. Sau đó, ông theo quân đồng minh đổ bộ lên bờ biển Noóc-măng-đi (Pháp) và tiến vào giải phóng Pa-ri. Hê-minh-uê rất thích môn đấu bò ở Tây Ban Nha và đi săn thú dữ ở châu Phi. Ngoài tiểu thuyết, Hê-minh-uê còn viết nhiều truyện ngắn (khoảng một trăm truyện) và đợc xem là bậc thầy của thể loại này. Năm 1952, Ông già và biển cả đợc xuất bản lần đầu trên tạp chí Đời sống. Tác phẩm gây đợc tiếng vang lớn và hai năm sau, Hê-minh-uê đợc trao tặng giải Nô-ben. Về cuối đời, ông bị bệnh tật giày vò và đã tự sát vào ngày 
21 - 7 - 1961 tại Két-chum, Hoa Kì. Ngày nay, hàng năm ở Cu-ba (nơi Hê-minh-uê sống gần hai mơi năm) và cả ở Phlo-ri-đa (Hoa Kì) đều tổ chức lễ hội Hê-minh-uê vào dịp sinh nhật ông.
– Ông già và biển cả là tác phẩm tiêu biểu cho lối viết "tảng băng trôi". Có nghĩa dung lợng câu chữ ít (khoảng 26 000 chữ) nhng các khoảng trống đợc tác giả tạo ra trong tác phẩm thì rất nhiều. Vì thế phần cha đợc viết ấy đóng vai trò rất lớn trong việc tăng các lớp nghĩa cho văn bản. Hê-minh-uê từng nói Ông già và biển cả lẽ ra dài cả 1 000 trang nhng ông chỉ rút còn bấy nhiêu trang mà thôi. Dới đây, chúng tôi cung cấp bản tóm tắt chi tiết hơn để GV tham khảo :
Suốt tám mơi t ngày liền, ông lão Xan-ti-a-gô không bắt đợc một mống cá nào. Mọi ngời dân làng chài ấy xem nh lão đã "đi đứt" vì gặp vận rủi. Bốn mơi ngày đầu, cậu bé Ma-nô-lin đi câu cùng lão, nhng sau đó do không bắt đợc cá nên cha mẹ cậu bé bắt cậu đi câu cùng thuyền khác. Kể từ đó, Xan-ti-a-gô đi biển một mình. Hằng sáng, lão chèo thuyền ra dòng nhiệt lu nơi có đàn cá lớn kiếm mồi. Chiều chiều, lão quay về với chiếc thuyền không.
Vào ngày thứ tám mơi lăm, Xan-ti-a-gô chèo thuyền ra khơi trớc khi trời sáng. Lần này lão đi thật xa. Sau khi để lại mùi đất sau lng, lão buông câu. Khi mặt trời mọc, lão thấy những thuyền câu khác gần mãi trong bờ. Một chú chim bói cá lợn lờ báo hiệu cho lão biết nơi đàn cá đô-ra-đô đang truy đuổi đám cá chuồn. Khoảng tra, con cá kiếm cắn câu. Nhng thay vì trồi lên thì nó lại điềm tĩnh kéo cả ông lão lẫn con thuyền về hớng tây bắc. 
Sáng ngày thứ hai, con cá nhảy lên. Thoạt trông thấy, Xan-ti-a-gô biết là lão đã câu đợc con cá kiếm khổng lồ mà trớc đây lão cha bao giờ nhìn thấy. Rồi con cá lặn xuống, đổi hớng bơi về phía đông. Xan-ti-a-gô dè xẻn uống từng hớp nớc một từ cái chai lão mang theo. Cố quên nỗi đau đớn từ bàn tay bị dây câu cứa đứt và cái lng ê ẩm, tối hôm ấy, ông lão chợp mắt một lát và chợt thức khi cảm thấy sợi dây câu chạy nhanh qua mấy ngón tay khi con cá nhảy lên. Chầm chậm thu dây lại, lão cố làm con cá kiếm kiệt sức. 
Khi mặt trời mọc ngày thứ ba, con cá bắt đầu lợn vòng. Mệt mỏi và choáng váng, lão cố kéo con cá đồ sộ vào sát thuyền hơn sau mỗi vòng lợn. Gần nh đã kiệt sức, song rốt cuộc lão cũng kìm đợc nó bên thuyền và phóng lao vào tim nó. Lão hớp một ngụm nớc nhỏ cho hồi sức rồi cắt dây buộc con cá kiếm vào mạn bởi không thể đa nó lên thuyền. Con cá dài hơn chiếc thuyền của lão chừng bốn tấc. Chẳng có một con cá nào nh nó đợc đa vào cảng 
Ha-va-na trớc đó. Nó sẽ mang lại vận may cho mình, lão nghĩ, trong lúc giơng buồm, xác định hớng quay về đất liền.
Nhng máu con cá kiếm đã loang nhanh trong đại dơng. Lão lo ngại về lũ cá mập. Và chỉ một tiếng đồng hồ sau, lão nhìn thấy con cá mập đầu tiên. Đấy là con Ma-kô hung tợn. Nó không hề do dự trớc lão khi tấn công con cá kiếm. Ông lão giết đợc nó nhng con cá kiếm chảy máu nhiều hơn. Xan-ti-a-gô biết, máu cá sẽ tiếp tục quyến rũ bọn cá mập. Lát sau, lão thấy hai con cá mập mũi xẻng lao đến. Lão đón chúng bằng mũi dao buộc vào đầu mái chèo và nhìn con quái vật của đại dơng chìm xuống chết. Lão giết nốt con kia khi nó tiếp tục xông vào xâu xé. Khi con thứ ba xông vào, lỡi dao của lão đâm trúng đích nhng bị gẫy khi con cá lăn mình giãy chết. Vào lúc hoàng hôn, cả đàn cá mập kéo đến. Lão vung chày nghênh chiến nhng rồi bị một con ngoạm lấy lôi đi. Sau đó lão quật chúng bằng tay lái với đôi tay rách nát và thân xác rã rời. 
Đàn cá mập kéo đến đông hơn và trời lại tối nên lão biết lão đã vô vọng. 
Hớng mũi thuyền về phía quầng sáng mờ mờ của cảng Ha-va-na hắt lên nền trời, lão nghe tiếng đàn cá mập rỉa bộ xơng con cá kiếm. Lão biết chúng chẳng để lại cho lão chút gì ngoại trừ bộ xơng đồ sộ của con cá khổng lồ.
Đèn tắt hết khi lão đa thuyền vào cảng nhỏ để neo lại. Lão tháo buồm, cuộn lại vác lên bờ. Lão bị ngã dới gánh nặng ấy rồi nằm đợi cho đến khi hồi sức để đứng dậy đi tiếp. Về đến lều, lão vật ngời xuống giờng rồi chìm vào giấc ngủ.
Sáng hôm ấy, cậu bé Ma-nô-lin tìm đến và thấy Xan-ti-a-gô đang ngủ. Trong lúc đó, các dân chài tụ tập quanh chiếc thuyền ông lão, mọi ngời đo và biết con cá kiếm ấy dài đến gần sáu mét. Khi Xan-ti-a-gô tỉnh dậy, hai ông cháu bàn chuyện rèn lại mũi lao. Suốt ngày hôm ấy biển động, thuyền câu không thể ra khơi. Có mấy du khách ở khách sạn Tê-ra-xơ trông thấy bộ xơng cá, lúc này chỉ là thứ rác thải, và không biết là xơng của loài cá nào. Trong khi đó, ông lão vẫn ngủ, Ma-nô-lin ngồi bên giờng. Ông lão đang mơ về những con s tử.
– Đô-ra-đô (nguyên văn : Dolphin) : Hê-minh-uê dùng để chỉ loài cá dolphin khác với cá heo làm xiếc (porpoise) : Đây là loài cá heo thờng (common dolphin), kích thớc và hình dạng khác hẳn cá heo làm xiếc, da màu xanh nhạt, ánh bạc, vi lng nối liền từ sau đầu đến đuôi, tốc độ bơi lớn, thờng nhao mình lên khỏi mặt biển đuổi theo cá chuồn lúc đang bay. Loài cá này còn có tên gọi khác là đô-ra-đô. Ngời Ha-oai gọi nó là ma-hi-ma-hi. Các bản dịch của Mặc Đỗ và Bảo Sơn gọi là cá hồng, cá lợn ; từ điển của Bùi Phụng cũng dịch là cá lợn, Huy Phơng dịch là cá cháy. Do cha xác định rõ tên loài cá này trong tiếng Việt, chúng tôi tạm để đô-ra-đô để tránh nhầm với loài cá heo làm xiếc.
2. Về phơng pháp
– Do đoạn trích dài nên GV chỉ chọn những chi tiết thật tiêu biểu để minh hoạ cho các luận điểm.
– Có thể sử dụng các hình ảnh minh hoạ trên trang web www.wikipedia.org.vn, mục từ về Ernest Hemingway hoặc The Old Man and the Sea.
III – Tiến trình tổ chức dạy học
1. Phần mở đầu
a) HS từng học văn học Hoa Kì với đoạn trích truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O. Hen-ri và đoạn trích Con chó Bấc trong tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã của G. Lân-đơn ở Chơng trình THCS. GV nhắc lại để chuyển dẫn sang bài mới về văn học Hoa Kì.
b) Lu ý cho HS đây là đoạn trích tiểu thuyết và là đoạn trích thể hiện t tởng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp sáng tạo của Hê-minh-uê : niềm tin bất diệt vào con ngời.
c) Về tác giả và tiểu thuyết, GV chỉ cần giới thiệu hoặc đề nghị HS nhắc lại một số nét chính từ tiểu dẫn và tóm tắt cốt truyện trong SGK.
2. Phần nội dung chính
Đây là văn bản có đan xen lời văn miêu tả thiên nhiên, loài vật, miêu tả đối thoại và đặc biệt là độc thoại nội tâm. Độc thoại nội tâm diễn ra có lúc với chính bản thân ông lão, có lúc với cá kiếm. GV cần hớng dẫn HS phân biệt các sắc thái tình cảm qua giọng đọc. 
Hớng dẫn HS đọc - hiểu văn bản trên cơ sở thảo luận sẽ trả lời các câu hỏi của SGK.
Câu hỏi 1 
Đây là bớc tiến hành trên lớp của GV và HS, nhằm giúp HS nắm đợc nội dung khái quát của văn bản. GV có thể ghi đề mục là Bố cục của văn bản và gợi ý (không làm thay) cho HS tìm bố cục. Có hai đoạn :
– Đoạn 1 : Từ đầu cho đến "Con cá trắng bạc và thẳng đơ và bồng bềnh theo sóng" : miêu tả cuộc chinh phục cá kiếm của ông lão.
– Đoạn 2 : Tiếp đó cho đến hết : miêu tả hành trình trở về của ông lão.
HS có thể đề xuất cách chia khác (chẳng hạn tách đoạn 2 thành hai đoạn : Đấu sức với cá kiếm, Giết chết nó), tuy nhiên cách chia hai đoạn là hợp lí hơn cả. GV hớng dẫn HS nêu nhận xét về sự chặt chẽ của bố cục văn bản.
Câu hỏi 2
Đề mục có thể ghi là Nghệ thuật miêu tả cá kiếm. Cách hớng dẫn này nhằm xâu chuỗi (theo chiều dọc) các chi tiết, sự kiện có liên quan đến cá kiếm trong toàn bộ văn bản. GV có thể nêu lần lợt các câu hỏi sau : 
a) Ngoại hình cá kiếm đợc ngời kể miêu tả nh thế nào ? – cực lớn, đuôi lớn hơn chiếc lỡi hái lớn, màu tím hồng... Ngoại hình đó toát lên sức mạnh ghê gớm và sự oai phong, đĩnh đạc.
b) Cá kiếm đợc ngời kể đặc tả cái gì ? – thân hình và cái đuôi : đồ sộ, hiên ngang ngay cả khi đã đuối sức.
– Hình ảnh đó thể hiện đặc điểm "phong độ dới áp lực" của nhân vật 
Hê-minh-uê.
– Ngời kể và ông lão đánh giá cao sức mạnh và uy phong của cá kiếm, vì thế cuộc ...  NHữNG ĐIểM CầN LƯU ý
1. Bài Ôn tập đợc soạn dới dạng bài tập và câu hỏi thảo luận. Để giải đợc bài tập, HS phải nắm vững kiến thức tiếng Việt đã học, từ đó biết vận dụng sáng tạo vào từng trờng hợp cụ thể.
2. ở Bài 1, GV cần hớng dẫn sao HS vừa củng cố đợc kiến thức đã học vừa hiểu đợc những tìm tòi, phá cách của nhà thơ. 
III – TIếN TRìNH Tổ CHứC DạY HọC
Gợi ý giải bài tập.
Bài tập 1
a) Để giải quyết câu chuyện một cách "hoà bình", bá Kiến phải nói với Chí Phèo bằng giọng thân mật, thậm chí "xuống nớc". Mà điều đó tuyệt đối không thể xảy ra trớc mắt "bọn dân làng", vốn xa nay chỉ thấy một bá Kiến đầy quyền uy.
b) Chí Phèo thì xng hô xấc xợc mày, tao, lại có ý đe doạ (Nhng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù cha biết chừng.). Còn bá Kiến, sau hàng loạt thủ thuật "tháo ngòi nổ" : xng hô nhũn nhặn anh, tôi ; giải thích lời lẽ nghiêm trọng của Chí Phèo theo cách ít nguy hiểm nhất (Lại say rồi phải không ?) ; nhiều lần mời mọc (Sao không vào tôi chơi ? Đi vào nhà uống nớc,  Cứ vào đây uống nớc đã) ; nhận lỗi về phía mình (Chỉ tại thằng lí Cờng nóng tính, không nghĩ trớc nghĩ sau), y cố gán cho hai bên quan hệ họ hàng (Ai chứ anh với nó còn có họ kia đấy). Và đã là họ hàng với nhau thì theo đạo lí của ngời Việt, chớ đá đáp nhau (Có cái gì, ta nói chuyện tử tế với nhau. Cần gì mà phải làm thanh động lên nh thế, ngời ngoài biết, mang tiếng cả). Thế là Chí Phèo bị khuất phục (Chí Phèo chả biết họ hàng ra làm sao, nhng cũng thấy lòng nguôi nguôi. Hắn cố làm ra vẻ nặng nề, ngồi lên). ở đây, Bá Kiến sử dụng quan hệ thân sơ, thay cho quan hệ quyền thế, là do "chiến lợc giao tiếp" của y : giải quyết vấn đề sao cho êm đẹp.
Bài tập 2
GV cho HS đọc kĩ văn bản để tìm những dẫn chứng thích đáng và điền vào hai bảng sau đây.
Đặc điểm chung của phong cách ngôn ngữ hành chính
Tính chính xác, minh bạch
Tính khuôn mẫu
Tính công vụ
?
Cách sử dụng phơng tiện ngôn ngữ trong phong cách ngôn ngữ hành chính
Về chữ viết
Về từ ngữ
Về kiểu câu
Về bố cục, trình bày
?
Bài tập 3
Câu (1) là đúng. Các câu còn lại sai vì thiếu hay thừa quan hệ từ. Sau đây là nguyên văn (quan hệ từ thiếu hay thừa đợc in đậm) :
      – Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nớc mắt chảy ra. (1)
                                                                         (Nam Cao – Lão Hạc)    
      – Dầu mỡ thờng xuyên nhỏ vào chiếc máy ngời là một niềm khao khát biết thêm, biết hơn hoàn toàn phi vật chất và những tế bào não bộ sẵn lòng bổ sung cho nhau trong một trờng luân vũ thờng xuân. (2)
                                                                         (Bửu ý – Đam mê) 
    – Nhng khi Chí Phèo ngật ngỡng bớc ra từ trang sách của Nam Cao thì ngời ta  liền nhận ra rằng, đây mới là hiện thân đầy đủ đối với những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của ngời dân cùng ở một nớc thuộc địa : bị giày đạp, bị cào xé, bị huỷ hoại từ nhân tính đến nhân hình. (3)
                                 (Nguyễn Đăng Mạnh – Nhớ Nam Cao và những bài học của ông) 
      –  Gần tra ông tôi tự đứng dậy đi men ra ngoài ngồi vào một cái chõng tre đặt bên mấy thau nớc. (4)     
                                                      (Đỗ Chu – Mảnh vờn xa hoang vắng) 
      – Để ngời con gái khỏi trở lại bàn, anh lấy chiếc khăn tay còn vo tròn cặp giữa cuốn sách tới trả cho cô gái. (5)
                                                      (Nguyễn Thành Long –  Lặng lẽ Sa Pa) 
Bài tập 4
a) Các câu (2) và (5) là đúng ; câu trớc là của Ma Văn Kháng (Ma mùa hạ), câu sau là của Thạch Lam (Hai đứa trẻ). 
b) Những câu còn lại là sai.
- Câu (1) : Thầy giáo, chứ không phải học sinh, bớc vào phòng học. Cách chữa đề nghị : Khi thầy giáo bớc vào phòng học, các em học sinh đứng dậy chào.
- Câu (3) : Không thể cùng một lúc dựa trên tuổi tác (ngời già - ngời trẻ) và đặc điểm của trang phục (một ngời mặc áo sơ mi màu đỏ chói). Lô gích học gọi đây là lỗi phân chia khái niệm dựa trên nhiều cơ sở. Để tìm cách chữa phù hợp, thì phải đọc tiếp, để có thêm thông tin, ví dụ ngời mặc áo sơ mi màu đỏ chói là đàn ông, còn hai ngời còn lại là nữ, thì có thể chữa nh sau : Bớc xuống thuyền là một ngời đàn ông mặc áo sơ mi màu đỏ chói và hai ngời phụ nữ, một già, một trẻ.
- Câu (4) : Nữ vận động viên không phải là nam vận động viên, tất nhiên. Cách chữa đề nghị : Không thể đòi hỏi thành tích thi đấu của nữ vận động viên phải nh nam vận động viên.
Bài  viết số 8
(Kiểm tra tổng hợp cuối năm)
(2 tiết)
I - Mục tiêu cần đạt
Giúp HS  :
- Nắm vững các nội dung cơ bản của cả ba phần (Đọc văn, Tiếng Việt và Làm văn) trong SGK Ngữ văn 12 Nâng cao, chủ yếu ở tập hai.
- Biết cách vận dụng những kiến thức và kĩ năng Ngữ văn đã học một cách tổng hợp, toàn diện để làm bài kiểm tra cuối năm.
II - Những điểm cần lu ý 
1. Về nội dung 
SGK đã nêu lên Những nội dung cơ bản cần chú ý ở sách Ngữ văn 12 Nâng cao, tập hai. GV cần xem lại những nội dung của ba phân môn, nắm vững cách ôn tập và hớng kiểm tra, đánh giá để chuẩn bị cho đề kiểm tra tổng hợp cuối năm. Nội dung bài Kiểm tra tổng hợp cuối năm chủ yếu trong phạm vi sách Ngữ văn 12 Nâng cao, tập hai nh đã nêu ở mục tiêu. Tuy vậy, vẫn cần yêu cầu HS liên hệ với một số kiến thức và kĩ năng đã học ở sách Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một, thậm chí cả những tri thức và kĩ năng đã học ở THCS để có thể giải quyết tốt các yêu cầu của đề bài.
Xem lại Bài viết số 4 (Kiểm tra cuối Học kì I, Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một) để thống nhất một số vấn đề trong khi chuẩn bị hớng dẫn HS ôn tập và ra đề cho bài Kiểm tra tổng hợp cuối năm. Chú ý một số điểm nh quy trình ra đề, quan niệm và cách ra các câu hỏi trắc nghiệm. Thống nhất quan niệm về độ khó của các câu trắc nghiệm. Chú ý tỉ lệ giữa các câu khó và dễ, cần nâng cao hơn độ khó và cách hỏi cho tơng ứng với trình độ HS lớp 12. Tránh những kiểu câu hỏi đã ra nhiều lần trong nhiều bài kiểm tra. Xem xét kĩ các kiến thức cơ bản và kĩ năng nào có thể kiểm tra bằng trắc nghiệm ; những kiến thức và kĩ năng nào cần kiểm tra bằng câu hỏi tự luận ; tỉ lệ giữa trắc nghiệm và tự luận nên là nh thế nào ; xây dựng đáp án và biểu điểm,... Tuy kiểu bài nghị luận không phải là mới, nhng hệ thống đề văn trong sách Ngữ văn 12 Nâng cao đã có nhiều yêu cầu cao hơn so với các lớp dới, nhất là yêu cầu về luận điểm, luận cứ, lập luận, bố cục, kĩ năng hoàn thiện bài viết và vận dụng tổng hợp các thao tác lập luận. Các đề văn nghị luận ở lớp 12 có nhiều đổi mới, nhất là loại đề nghị luận xã hội, đòi hỏi ngời viết phải có ý kiến của riêng mình và khuyến khích sự linh hoạt sáng tạo khi viết bài, Chính vì thế GV cần nghiên cứu kĩ toàn bộ hệ thống kiến thức và kĩ năng làm văn trong sách Ngữ văn 11 Nâng cao, Ngữ văn 12 Nâng cao và tập làm văn nghị luận trong sách Ngữ văn THCS để tổ chức ôn tập và ra đề kiểm tra cho phù hợp.
2. Về phơng pháp
Theo tinh thần trên, việc kiểm tra đánh giá kiến thức và kĩ năng Ngữ văn của HS, tập trung vào hai phơng diện :
- Đánh giá những kiến thức của HS về tác phẩm, tác giả, lịch sử và lí luận văn học (đã nêu ở bài ôn tập về Văn học) và các kiến thức tiếng Việt (đã nêu ở bài ôn tập về Tiếng Việt) trong SGK Ngữ văn 12 Nâng cao, tập hai. Những nội dung trên có thể kiểm tra bằng hình thức trắc nghiệm. 
- Đánh giá khả năng tạo lập văn bản của HS theo các kiểu văn bản đợc học với những nội dung nâng cao (đã nêu ở bài ôn tập về Làm văn). Những nội dung này cần kiểm tra bằng hình thức tự luận (viết một bài, đoạn văn). 
III - gợi ý về việc kiểm tra đánh giá cuối năm học
1. GV hớng dẫn HS cách ôn tập theo SGK Ngữ văn 12 Nâng cao, tập hai đã nêu.
2. Tổ chức nghiên cứu, trao đổi và xây dựng đề kiểm tra cuối học kì theo tinh thần đổi mới. Bám sát những yêu cầu cơ bản về nội dung và cách kiểm tra – đánh giá để chuẩn bị cho HS thi tốt nghiệp THPT.
3. Về hình thức bài Kiểm tra tổng hợp cuối năm, GV có thể tham khảo nội dung Bài viết số 4 (Kiểm tra tổng hợp cuối Học kì I) đã nêu cuối sách Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một. Phần tự luận cần phong phú và đa dạng hơn trong cách ra đề : có thể ra theo hớng cho HS tự chọn một trong hai câu hoặc có thể ra nhiều câu trong một đề kiểm tra. Cũng có thể ra cả đề nghị luận văn học và nghị luận xã hội, chú ý cả văn học Việt Nam và văn học nớc ngoài. 
4.  Gợi ý hớng giải một số đề nêu trong bài kiểm tra cuối năm của SGK.
Đề 1. Tiền tài và hạnh phúc. 
Để viết đề văn này, HS có thể triển khai theo hệ thống ý nh sau : Tiền tài là gì ? Tiền tài có vai trò nh thế nào trong cuộc sống của con ngời (mặt tích cực và tiêu cực ?) ; Thế nào là hạnh phúc ? Tiền tài có tạo nên hạnh phúc không ? Khi nào thì tiền tài tạo nên hạnh phúc và khi nào thì nó phá huỷ hạnh phúc ? Vì sao ? Chứng minh những tác động tích cực và tiêu cực của tiền tài đối với hạnh phúc con ngời (lấy dẫn chứng và phân tích dẫn chứng trong cuộc sống và trong văn học). Rút ra ý nghĩa và bài học về đạo lí, lối sống từ vấn đề vừa nghị luận.
Đề 2. "Có ba điều làm hỏng một con ngời : rợu, tính kiêu ngạo và sự giận dữ". Anh (chị) suy nghĩ nh thế nào về những điều đó ?
Với đề này trớc hết HS cần giải thích cho ngời đọc hiểu ba điều : rợu là gì ? Tính kiêu ngạo là thế nào ? Và sự giận dữ là thế nào ? Từ đó mới giải thích tại sao ba điều ấy (ba thứ ấy) lại có thể "làm hỏng một con ngời" ? Điều đó có đúng không ? Vì sao ? Những biểu hiện của một con ngời h hỏng do ba thứ ấy là gì ? Liên hệ với các nhân vật trong văn học và cuộc sống để làm sáng tỏ bằng các ví dụ cụ thể. Rút ra bài học từ lời khuyên trên.
Đề 3. Hình tợng ngời phụ nữ gợi cho anh (chị) nhiều suy nghĩ nhất trong các tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Vợ nhặt (Kim Lân), Một ngời Hà Nội (Nguyễn Khải) và Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu).
Trong bốn tác phẩm nêu trên, ngời phụ nữ xuất hiện với hai dạng chính : 
- Ngời phụ nữ với nhiều đau đớn, tủi nhục, khốn khổ và bất hạnh,... Đó là Mị trong Vợ chồng A Phủ, vợ Tràng và bà cụ Tứ trong Vợ nhặt và ngời đàn bà (mẹ của Phác) trong Chiếc thuyền ngoài xa.
- Ngời phụ nữ nh là một biểu tợng của bản lĩnh và nhân cách cao đẹp, tiêu biểu cho bản sắc văn hoá Hà Nội nh bà Hiền trong truyện Một ngời Hà Nội của Nguyễn Khải.
Ngời viết có thể lựa chọn bất kì nhân vật nào trong hai dạng trên để phát biểu những suy nghĩ của mình miễn là trình bày rõ và có sức thuyết phục những lí do mà nhân vật đó gợi cho mình nhiều suy nghĩ nhất.
Đề 4. Từ xa đến nay, cha ông ta luôn coi văn học là một thứ vũ khí chiến đấu mạnh mẽ và sắc bén. Anh (chị) hãy làm sáng tỏ quan niệm đó. 
Trớc hết cần phân tích vai trò và tác dụng của văn học nói chung. Sau đó giải thích tại sao cha ông ta lại luôn coi văn học là một thứ vũ khí chiến đấu mạnh mẽ và sắc bén. Nêu lên một số câu có tính tuyên ngôn của cha ông ta về sức mạnh của văn học (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu,). Chứng minh trong lịch sử giữ nớc cha ông ta đã dùng thơ văn nh một vũ khí chiến đấu mạnh mẽ và sắc bén nh thế nào (từ Lí Thờng Kiệt, Trần Hng Đạo, Nguyễn Trãi, đến thơ văn cách mạng sau này, nhất là bộ phận thơ tù,...).
(1) Xem Chơng trình Giáo dục phổ thông – Môn Ngữ văn, NXB Giáo dục, 2006, tr. 47.

Tài liệu đính kèm:

  • docSGV Ngu van 12 tap 1.doc