Sách giáo viên Ngữ văn 12 nâng cao

Sách giáo viên Ngữ văn 12 nâng cao

vợ chồng a phủ

(Trích)

(2 tiết)

tô hoài

I - mục tiêu cần đạt

Giúp HS :

- Hiểu đợc giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện qua sự lên án tội ác của bọn thống trị và khẳng định sức sống ngoan cờng, khát vọng tự do vẫn tiềm tàng ở ngời dân lao động.

- Phân tích đợc nghệ thuật xây dựng hình tợng nhân vật Mị và A Phủ, nghệ thuật tạo tình huống truyện, miêu tả sinh hoạt, phong tục và tâm lí nhân vật.

- Rèn luyện kĩ năng phân tích tác phẩm truyện, chủ yếu là phân tích nhân vật và các chi tiết nghệ thuật quan trọng.

 

doc 120 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 2568Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sách giáo viên Ngữ văn 12 nâng cao", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SáCH GIáO VIÊN NGữ VĂN 12  NÂNG CAO
P1                P2
vợ chồng a phủ
(Trích)
(2 tiết)
tô hoài
I - mục tiêu cần đạt
Giúp HS :
- Hiểu đợc giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện qua sự lên án tội ác của bọn thống trị và khẳng định sức sống ngoan cờng, khát vọng tự do vẫn tiềm tàng ở ngời dân lao động.
- Phân tích đợc nghệ thuật xây dựng hình tợng nhân vật Mị và A Phủ, nghệ thuật tạo tình huống truyện, miêu tả sinh hoạt, phong tục và tâm lí nhân vật.
- Rèn luyện kĩ năng phân tích tác phẩm truyện, chủ yếu là phân tích nhân vật và các chi tiết nghệ thuật quan trọng.
II - Những điểm cần lu ý
1. Về nội dung
Cuối năm 1952, nhà văn Tô Hoài đi với bộ đội trong chiến dịch Tây Bắc. Sau khi tìm hiểu chung về tình hình, Tô Hoài quyết định đi sâu vào những khu du kích của đồng bào các dân tộc thiểu số trên vùng núi cao. Chuyến đi kéo dài tám tháng đã để lại những ấn tợng sâu sắc và tình cảm tốt đẹp cho nhà văn. Tô Hoài kể lại : "Cái kết quả lớn nhất và trớc nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nớc và con ngời miền Tây đã để thơng để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên đợc lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi khỏi dốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo : "Chéo lù ! Chéo lù !" (Trở lại ! Trở lại !). Không bao giờ tôi quên đợc lúc vợ chồng Lí Nủ Chu tiễn chúng tôi dới chân núi Cao Phạ cũng vẫy tay kêu : "Chéo lù ! Chéo lù !". Hai tiếng : "Trở lại ! Trở lại !" chẳng những nhắc tôi có ngày trở lại, phải đem trở lại cho những ngời thơng ấy của tôi một kỉ niệm tấm lòng mình, một cái gì làm hiển hiện lại cả cuộc đời ngời Mèo trung thực, chí tình, dù gian nan đến thế nào bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại [...]. Hình ảnh Tây Bắc đau thơng và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành ngời, thành việc trong tâm trí tôi. [...] ý thiết tha với đề tài là một lẽ quyết định. Vì thế tôi viết Truyện Tây Bắc"().
SGK chỉ chọn trích phần một của truyện, vì :
- Truyện quá dài, trong 2 tiết học không thể tìm hiểu hết cả tác phẩm.
- Phần đầu đặc sắc hơn. Phần sau của truyện dàn trải, nhân vật hành động theo sự sắp đặt, dẫn dắt của tác giả nhằm chứng minh cho con đờng giác ngộ đi đến với cách mạng của quần chúng.
- Trong lần chọn gần đây đa vào tuyển tập Truyện ngắn Việt Nam 1945 - 1985(), tác giả đã lợc bỏ hầu hết phần hai của truyện. Truyện kết thúc ở chỗ Mị và A Phủ đa nhau đến Phiềng Sa và thành vợ chồng.
Tuy nhiên, vì truyện này đã rất quen thuộc với nhà trờng và công chúng, SGK vẫn dựa theo văn bản các lần in trớc và có tóm tắt phần còn lại.
Tuy đã trích một phần, nhng vẫn dài, không thể đọc cả phần này trong giờ giảng mà chỉ cần tóm tắt truyện (sau khi đã giới thiệu về tác giả và tác phẩm). Nên kết hợp khâu đọc văn bản trong quá trình phân tích.
2. Về phơng pháp
Phần trích truyện có bố cục nh sau :
- Giới thiệu về Mị và tình cảnh Mị làm con dâu gạt nợ nhà Pá Tra, cảnh Mị muốn đi chơi và bị A Sử trói vào cột, trong ngày tết.
- Việc A Phủ bị trói vào cọc chờ chết và Mị cắt dây trói cứu A Phủ, hai ngời cùng trốn đi.
Phân tích đoạn trích nên theo trình tự bố cục trên đây, tập trung vào nhân vật Mị với những diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật trong hai trờng đoạn : đêm tết, Mị muốn đi chơi và Mị trớc tình cảnh A Phủ bị trói.
Truyện Vợ chồng A Phủ cũng nh hai truyện khác của tập Truyện Tây Bắc, đều thể hiện số phận đau khổ của ngời dân lao động miền núi dới ách phong kiến, thực dân và con đờng giải phóng của họ trong cách mạng và kháng chiến. Chủ đề này cũng gặp ở nhiều tác phẩm của nền văn học cách mạng 1945 - 1975. Điều đặc sắc ở truyện này là ngòi bút miêu tả nhân vật, khắc hoạ tính cách con ngời miền núi, cùng với những bức tranh thiên nhiên, sinh hoạt đậm màu sắc phong tục - đây vốn là sở trờng của cây bút Tô Hoài. Khi phân tích tác phẩm, cần làm cho HS cảm nhận đợc những nét riêng ấy trong một chủ đề có tính chất chung của văn học thời kì đó.
III - tiến trình tổ chức dạy học
1. Phần mở đầu
Cho HS đọc phần Tiểu dẫn về tác giả, tác phẩm. GV dựa vào điểm 1 phần II ở trên và phần Tri thức đọc - hiểu trong SGK để nói rõ thêm và nhấn mạnh động lực tình cảm cùng sự hiểu biết, gắn bó với nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã giúp tác giả thành công.
Giới thiệu về đoạn trích : Cho HS tóm tắt cốt truyện của đoạn này, GV tóm tắt phần còn lại của truyện.
2. Phần nội dung chính
Câu hỏi 1
- Cô Mị, con dâu gạt nợ nhà Pá Tra.
Đọc đoạn mở đầu truyện, cho HS nhận xét về cách giới thiệu nhân vật của tác giả. (Chú ý các chi tiết : ngồi bên tảng đá, cạnh tàu ngựa, lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rời rợi. Mị hoàn toàn xa lạ với cảnh giàu sang, tấp nập của nhà thống lí). Cách giới thiệu ấy gợi cho ngời đọc chú ý và gợi ra số phận đau khổ, éo le của nhân vật.
Tiếp đó, tác giả kể về việc Mị phải về làm dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra. Câu chuyện đau buồn của Mị nói lên thân phận đau khổ của ngời nông dân nghèo, ngời phụ nữ nghèo ở miền núi (món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ đến Mị phải trả bằng cả tuổi trẻ và cuộc sống tự do của mình). Đồng thời, qua đoạn kể cũng cho thấy những nét tốt đẹp ở Mị : có nhan sắc và tâm hồn, yêu đời, khao khát hạnh phúc, chăm chỉ và hiếu thảo. Tóm lại, Mị có đủ những phẩm chất để đáng đợc sống cuộc sống hạnh phúc.
Lúc đầu, bị bắt về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phản kháng quyết liệt (đêm nào cũng khóc rồi định ăn lá ngón tự tử), nhng lòng hiếu thảo không cho phép Mị quyên sinh, và ách áp bức nặng nề, dai dẳng của thế lực phong kiến và thần quyền ở miền núi đã làm cho Mị tê liệt, sống mà nh chết ("ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa" ; Mị dờng nh không còn ý niệm về thời gian, không hi vọng, không mong đợi cái gì, suốt ngày "lùi lũi nh con rùa nuôi trong xó cửa" ; căn buồng âm u nơi Mị nằm và cái cửa sổ bằng bàn tay gợi không khí một nhà tù).
Câu hỏi 2 
- Sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do ở nhân vật Mị.
Hớng dẫn HS phân tích nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế và sâu sắc trong đoạn tả đêm tết, Mị muốn đi chơi và bị trói vào cột. Tác động của ngoại cảnh, mùa xuân đến, tiếng sáo gọi bạn tình, bữa rợu bên bếp lửa và ngời ốp đồng. Sự thức tỉnh của Mị giống nh một sự sống lại, bắt đầu từ sự thức dậy trong tiềm thức những hồi ức, kỉ niệm quá khứ, rồi Mị sống với tiếng sáo trong lòng, ý thức về thời gian đã trở lại, cùng với nó là khát vọng sống và ý thức về thân phận của mình. Từ ý thức tới hành động (thắp đèn sáng lên, quấn lại tóc, rút váy hoa, chuẩn bị đi chơi). Mị vẫn còn sống với những khao khát cháy bỏng ngay cả khi đã bị A Sử trói đứng vào cột.
- Hành động cắt dây trói cứu A Phủ và tự giải thoát. GV gợi ý HS phân tích đoạn tả tâm trạng của Mị trớc tình cảnh A Phủ bị trói vào cọc. Lúc đầu, A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên nh một ngời đã quá quen với mọi cảnh ngang trái trong nhà Pá Tra, Mị vẫn chìm trong trạng thái gần nh "vô cảm". Nhng rồi một đêm, qua ánh lửa bếp, nhìn sang thấy "một dòng nớc mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã tối đen lại" - biểu hiện sự đau đớn tuyệt vọng của chàng trai gan góc, khoẻ mạnh, thì Mị chợt xúc động, trào lên một nỗi đồng cảm với thân phận của A Phủ, rồi tình thơng đã thắng mọi sự sợ hãi. (Mị nghĩ mình có thể phải trói thay vào đấy, chết trên cái cọc ấy, nhng cũng không thấy sợ). Tình thơng và sự đồng cảm giai cấp đã dẫn đến hành động táo bạo : cắt dây trói cứu A Phủ. Đúng lúc ấy, khi đã cứu đợc A Phủ, một hi vọng và khao khát sống lại bừng lên trong Mị và Mị đã chạy theo, cùng trốn đi với A Phủ, tự giải thoát cho cuộc đời mình.
- Những nét tính cách nổi bật ở nhân vật Mị. Mị vốn là một cô gái trẻ, đẹp, hồn nhiên và giàu sức sống. Khi bị đẩy vào tình trạng làm con dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra, Mị đã phản kháng quyết liệt nhng rồi kiếp sống nô lệ triền miên  dờng nh đã làm cho cô tê liệt mọi sức phản kháng và chỉ còn cam chịu số phận. Nhng ở Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mạnh mẽ, cùng với khát vọng yêu đơng và tự do. Sức sống của nhân vật này ẩn giấu ở bên trong nội tâm, chỉ đợc bùng lên trong những thời điểm nhất định, đợc biểu hiện ra thành những hành động quyết liệt, táo bạo. Trong suốt nửa đầu của truyện (phần trích trong SGK), hầu nh tác giả không để cho nhân vật này có lời đối thoại nào (ngoại trừ một câu nói với cha đợc dẫn lại trong lời ngời kể chuyện). Nhng điều đó càng cho thấy Mị là con ngời có sức sống nội tâm âm thầm mà mạnh mẽ.
Câu hỏi 3
- A Phủ, ngời ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.
Cũng nh Mị, A Phủ đợc tác giả giới thiệu bằng sự xuất hiện đột ngột, gây chú ý cho ngời đọc, rồi mới kể về lai lịch của anh. A Phủ xuất hiện trong cuộc đánh nhau của trai làng bên với bọn A Sử. A Phủ xuất hiện đối đầu với A Sử thật hiên ngang và trận đòn đánh mới áp đảo và hả hê làm sao ! (Chú ý câu văn mô tả cảnh này bằng một loạt từ chỉ hành động với nhịp nhanh, mạnh, dồn dập : chạy vụt ra, vung tay ném, xộc tới nắm, kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp).
A Phủ là một thanh niên nghèo, suốt đời đi làm thuê làm mớn, không có ruộng, không có cả đến cái vòng bạc đeo cổ để đi chơi tết. Cha mẹ đã chết cả trong một trận dịch đậu mùa, A Phủ từng đã bị bắt bán xuống vùng ngời Thái,... Nhng chính cuộc sống cùng cực ấy đã hun đúc thêm ở A Phủ một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuộng tự do và tính cách thật gan góc, cùng với tài năng lao động đáng quý. A Phủ thạo và ham thích những công việc lao động nặng nhọc mà khó khăn, nguy hiểm : "biết đúc lỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo", "đốt rừng, cày nơng, cuốc nơng, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò". A Phủ là đứa con của núi rừng tự do. Cuộc sống phóng khoáng, a tự do, gần gũi thiên nhiên và chất phác của A Phủ cũng là một nét tính cách đặc trng của ngời Mông.
Việc A Phủ bị bắt làm ngời ở gạt nợ càng làm tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm : một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc, vốn không nợ nần gì nhà Pá Tra, lại lao động giỏi, sống tự do nh chim trời giữa núi rừng, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của chúa đất, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà Pá Tra. Hơn thế nữa, cho đến cả đời con đời cháu cũng vậy, bao giờ trả hết nợ mới thôi !
- Cảnh bọn chức việc trong làng xử kiện A Phủ lại thêm một bức tranh cụ thể, sống động, giàu sức tố cáo về một tập tục là hiện thân của ách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt "tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh nh khói bếp" và "ngời thì đánh, ngời thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lợt đánh, kể, chửi, lại hút", cứ thế suốt từ tra cho đến hết đêm. Còn A Phủ gan góc, quỳ chịu đòn chỉ im nh tợng đá.
- Khi đi chăn bò, để hổ bắt mất một con, A Phủ vẫn rất thật thà và bộc trực xin với Pá Tra cho mợn súng đi bắn hổ. Suốt mấy ngày đêm bị trói đứng vào cọc chờ chết, ngời con trai gan góc, đầy sức vóc ấy cũng đã phải tuyệt vọng : "một dòng nớc mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Sau khi đợc Mị cắt dây trói, A Phủ khuỵu xuống, nhng rồi khát vọng sống lại khiến anh quật sức, vùng lên chạy.
- A Phủ và Mị có số phận rất tơng đồng, có những nét tính cách gần nhau, nhng vẫn là hai nhân vậ ... " của Nguyễn Tuân, nhân phân tích vẻ đẹp của nhân vật quản ngục thể hiện ở thái độ ngỡng mộ đến mức sùng kính đối với Huấn Cao, tôi chọn một lối kết luận gợi ở ngời đọc những suy ngẫm rộng ra về cái sang, cái hèn, cái cao cả đê tiện của con ngời ta trớc cái tài, cái đẹp, cái thiên lơng ở trên đời : "Cái cử chỉ đẹp nhất, cảm động nhất của nhân vật này (tức viên quản ngục) lại chính là cái cử chỉ khúm núm trớc ngời tử tù cái đêm Huấn Cao cho chữ trong nhà ngục [...]. Có những cái cúi đầu làm cho con ngời ta trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho con ngời bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn. Đấy là cái cúi đầu trớc cái tài, cái đẹp, cái thiên lơng.
Chính Cao Chu Thần, nguyên mẫu của nhân vật Huấn Cao trong Chữ ngời tử tù, có một câu thơ thật đẹp, thật sang :
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.
(Một đời chỉ biết cúi đầu vái lạy mai hoa)
Cái cúi đầu của thầy quản ngục vái lạy Huấn Cao chính là cái cúi đầu của Cao Bá Quát trớc hoa mai vậy"(1).
Cái gọi là d ba của lời kết ở đây chính là gợi mở những ngẫm nghĩ về nhân cách con ngòi nh nói ở trên, cùng một lúc với sự thâu tóm lại – thâu tóm không phải bằng sự lặp lại mà bằng một hình ảnh mới mẻ, hấp dẫn : Vẻ đẹp của hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục vốn là nội dung cơ bản của bài viết.
Nói chung đối với những cây bút lớn vừa qua đời thì để tỏ lòng yêu quý ông ta, không gì hơn là nói đến sự bất tử của sự nghiệp ông ta. Trong bài viết về Xuân Diệu tôi đã kết thúc bằng cái ý ấy, tất nhiên phải tìm một cách diễn đạt mới mẻ và cảm động, lại có ý nghĩa tổng kết cuộc đời của nhà thơ – vì đây là lời kết luận : "Thế Lữ đã đánh giá cao tài năng nghệ thuật của Xuân Diệu [...]. Nhng thực ra, điểm xuất phát của Xuân Diệu đâu phải là chuyện tài. Cũng chẳng phải là chuyện thơ văn. Cao hơn nhà thơ, cao hơn nhà nghệ sĩ là một trái tim hồng muốn đập mãi với cuộc đời này, một linh hồn chân thành và rộng mở muốn sống mãi với cõi đời bất diệt này. Vì thế mà Xuân Diệu đã tìm đến với thơ văn nh tìm thấy một lẽ sống.
Cuối tập Gửi hơng cho gió, ông có một bài thơ lấy tên Tình mai sau bắt nguồn từ một ý thơ trong Truyện Kiều :
       Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hơng ấy so tơ phím này.
Xa kia Thuý Kiều, nghĩ đến lúc quyên sinh, đã để lại cho em và chàng Kim những vật thiêng để gọi hồn mình : "Phím đàn với mảnh hơng nguyền ngày xa".
Ngày nay những vật thiêng Xuân Diệu để lại cho chúng ta là những vần thơ, những áng văn sôi nổi tình yêu, chan chứa tình đời :
Nếu trang sách có động mình tuyết bạch
ấy là tôi dào dạt với âm thanh
[...] Thơ tôi đó gió lùa đem toả khắp
Và lòng tôi mời mọc bạn chia nhau...
Nh vậy là trong cuộc quyết đấu với cái chết, cuối cùng nhà thơ đã chiến thắng"(1).
Trong nhiều trờng hợp tôi kết luận bằng một câu hỏi, khêu gợi sự suy nghĩ cho độc giả khi đọc hết câu cuối cùng.
Bài về Tô Hoài :
"Đợc sống với mọi ngời bình thờng, đợc sống nh một ngời bình thờng, đó là hạnh phúc thiết thực nhất.
Đợc viết về những ngời bình thờng, đợc tìm tòi khám phá con ngời ở phơng diện ngời thờng, trong sinh hoạt đời thờng ; đó là, văn chơng nhân tình, nhân bản nhất.
Triết lí sống của Tô Hoài, quan niệm nghệ thuật của Tô Hoài là nh thế chăng?"(2).[]
Trong bài Nguyễn Tuân viết yêu ngôn, tôi muốn trong lời kết luận, khẳng định cái tài đặc biệt viết về ma quỷ của Nguyễn Tuân. Nhng tôi không muốn ca tụng một cách lộ liễu, nên mợn một câu chuyện của Kim Lân kể về Nguyễn Tuân. Và cũng kết thúc bằng một câu hỏi : "Gần đây nhà văn Kim Lân có cho tôi biết hiện tợng đặc biệt này ở Nguyễn Tuân : có một lần Kim Lân và Nguyễn Tuân cùng đi một chuyến công tác ở nớc ngoài. Đến một nớc bạn kia thuộc vùng Đông Âu, hai ông đợc xếp ở cùng khách sạn, mỗi ngời một buồng riêng rất đàng hoàng. Nhng Nguyễn Tuân lại mang hành lí sang phòng Kim Lân đề nghị ở chung. Và đêm nào cũng vậy, Kim Lân bị đánh thức dậy vì Nguyễn Tuân bật đèn sáng, ăn mặc chỉnh tề, xếp quần áo đồ đạc vào va li, uống cạn một li rợu rồi đi lại lộp cộp trong phòng y nh sắp sửa lên đờng vậy. Nhng thực ra ông chẳng đi đâu cả. Vì sau đó lại cởi quần áo, thu dọn mọi thứ và đi ngủ. Kim Lân rất bực vì bị quấy nhiễu không sao ngủ đợc. Và ông không hiểu tại sao Nguyễn Tuân lại nh thế. Giá một đêm nh thế thì bảo là khó ngủ. Nhng đêm nào cũng thế. Vả lại khó ngủ tại sao phải ăn mặc cẩn thận và sửa soạn hành lí làm gì ? Cho đến nay, Kim Lân vẫn cha tìm đợc câu trả lời cho câu hỏi ấy của mình. Ông hạ giọng nói với tôi : "Này Nguyễn Tuân thế mà lại là tay sợ ma nhé ! Hay ông ta cũng là ma ! Ma nên mới sợ ma. Ma nên mới viết về ma giỏi nh thế chứ ?".
Chả lẽ lại đúng nh vậy sao ?"(1).
Tôi rất lấy làm đắc ý về cái kết luận này. Vừa vui, vừa đạt đợc ý khen, mà kín đáo, không nịnh bợ, vừa tạo đợc một cái gì bâng khuâng trớc một hiện tợng h h thực thực...
Nói về chuyện kết luận thì có trăm nghìn cách. Nhng cách nào thì cách, đều phải cố thực hiện đợc hai chức năng :
– Thâu tóm nội dung bài bằng một hình thức mới mẻ, ngắn gọn, hấp dẫn.
– Tạo đợc d ba trong tâm t tình cảm của ngời đọc.
Nhng xét cho cùng, muốn đạt đợc hiệu quả đó phải chân thật, chân thật, chân thật. Tài khéo đến đâu mà không chân thật cũng vất đi, có khi lại gây "phản cảm" nữa là khác".
                                    (Nguyễn Đăng Mạnh,
 in trong Văn  – bồi dỡng học sinh giỏi THPT, Sđd)
Trả bài viết số 6
(1 tiết)
I - Mục tiêu cần đạt
Giúp HS :
- Nắm đợc đặc điểm và các yêu cầu cơ bản của đề văn ở Bài viết số 6.
- Biết cách phân tích đề văn nghị luận về một sự việc, hiện tợng đời sống ; nhận ra đợc u và nhợc điểm của bài viết.
II - Những điểm cần lu ý
1. Về nội dung
Các đề kiểm tra ở Bài viết số 6 nhằm thực hành, luyện tập về kiểu văn bản nghị luận xã hội với dạng đề bàn về một sự việc, một hiện tợng trong cuộc sống. Dù tự ra đề hay lựa chọn một trong các đề mà SGK Ngữ văn 12 Nâng cao, tập hai đã nêu thì bài viết này cũng nhằm vào các nhiệm vụ chính sau đây :
- Ôn lại cách làm bài nghị luận về một sự việc, một hiện tợng trong cuộc sống đã học qua thực hành viết bài. 
- Kiểm tra năng lực vận dụng các kiến thức xã hội và kĩ năng phân tích một vấn đề xã hội, cuộc sống vào bài viết.
- Đánh giá đợc những u điểm và hạn chế của HS trong việc viết dạng bài nghị luận này để có phơng hớng khắc phục, sửa chữa.
Chính vì thế, đề văn, đáp án và những nhận xét, đánh giá u, nhợc điểm của GV đối với bài viết của HS đều phải tập trung vào những yêu cầu cơ bản trên đây. Tất nhiên ngoài nội dung chính vừa nêu, vẫn cần xem xét các kĩ năng viết nói chung, nh bố cục (mở bài, thân bài, kết bài), các lỗi diễn đạt và trình bày của HS nh ở bất cứ bài viết nào. SGK cũng đã nêu lên các yêu cầu để HS suy nghĩ, đối chiếu và tự nhận xét bài của chính mình theo các yêu cầu này (xem SGK Ngữ văn 12 Nâng cao, tập hai, Trả bài viết số 6).
2. Về phơng pháp
Xem lại yêu cầu của tiết Trả bài viết số 1 (Ngữ văn 12 Nâng cao, tập một) để thấy ý nghĩa hết sức thiết thực và quan trọng của việc trả bài trong việc dạy học làm văn. Khắc phục các nhợc điểm thờng gặp trong các tiết trả bài đã nêu. Xem xét và so sánh kết quả Bài viết số 6 với các bài viết trớc để thấy đợc sự tiến bộ của HS, từ đó đánh giá đúng những u, khuyết điểm mà HS còn mắc phải. Chú ý nhắc nhở HS các lỗi cần tránh khi viết bài nghị luận về một sự việc, hiện tợng trong cuộc sống : thiếu chân thật, làm văn theo điệu sáo (tán dơng, hô khẩu hiệu,...).
III - tiến trình Tổ chức dạy học
Cũng nh các tiết trả bài khác, quy trình (các hoạt động) trả bài là giống nhau, chỉ khác ở những yêu cầu và nội dung cụ thể của mỗi bài viết.
1. Phần mở đầu : nêu yêu cầu của tiết trả bài.
2. Phần nội dung chính
a) Nêu lại đề và tập trung phân tích tìm hiểu đề
- GV yêu cầu HS nhớ và đọc lại đề văn của bài đã làm ; chỉnh sửa và nêu những lu ý cần thiết về đề. Qua việc yêu cầu nhắc lại đề một cách chính xác, GV rèn luyện cho HS thói quen đọc kĩ đề, biết chú ý những dấu hiệu quan trọng để phân tích đề đúng. Qua thao tác này cũng nắm đợc HS nào đọc kĩ hay không kĩ đề đã làm. Kết hợp liên hệ, so sánh và phân tích các đề văn trong SGK Ngữ văn 12 Nâng cao, tập hai để thấy đợc mục đích, yêu cầu của các đề văn đã nêu.
- Yêu cầu HS phân tích đề : chỉ ra các yêu cầu về nội dung và hình thức. Nội dung chính mà bài viết cần tập trung làm nổi bật là gì ? Phạm vi t liệu văn học đề yêu cầu là gì ? Đề kiểm tra yêu cầu viết bài nghị luận xã hội thuộc dạng nào ? Ngoài phơng thức biểu đạt chính có vận dụng thêm phơng thức biểu đạt nào khác không ?,
b) Tổ chức cho HS thảo luận, xây dựng đáp án (dàn ý)
- Yêu cầu HS nêu và xây dựng dàn ý bằng một hệ thống câu hỏi, gợi dẫn qua đó mà hình thành cách tìm ý, cách lập dàn ý.
- GV nhận xét và bổ sung cho hoàn chỉnh dàn ý và các yêu cầu cần đạt, tham khảo các gợi ý đã nêu của năm đề ở Bài viết số 6 trong sách này. 
c) Nhận xét và đánh giá bài viết của HS
- GV cho HS tự nhận xét bài viết của mình qua việc đối chiếu với dàn ý và các yêu cầu vừa nêu. Đã nhận thức đúng vấn đề trọng tâm, phạm vi, mức độ t liệu mà đề yêu cầu hay cha ? Những kiến thức về đời sống, về tác phẩm văn học cần huy động ra sao ? Bài viết đã đáp ứng đợc những yêu cầu nào ? Còn thiếu những gì ? Nếu viết lại thì sẽ bổ sung nh thế nào ? Những lỗi cần tránh mà HS thờng mắc phải về kĩ năng phân tích một vấn đề xã hội,
- GV nêu nhận xét, đánh giá của mình về bài viết của HS : u điểm, nhợc điểm ; những lỗi cơ bản cần khắc phục (nhận xét chung và cho ví dụ cụ thể theo bài làm của HS).
d) Sửa chữa lỗi của bài viết
- GV cho HS trao đổi hớng sửa chữa các lỗi về nội dung (ý và sắp xếp các ý ; sự kết hợp các thao tác nghị luận, kĩ năng phân tích và cảm thụ văn học) ; về hình thức (bố cục, trình bày, diễn đạt, chính tả, ngữ pháp,...).
3. Phần củng cố
- GV bổ sung, kết luận về hớng và cách sửa lỗi.
- Trả bài và biểu dơng, nhắc nhở (Nếu có thời gian GV nên đọc bài văn hoặc một vài đoạn văn hay của một HS có điểm số cao để cả lớp tham khảo, rút kinh nghiệm chung).
() Tô Hoài, Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, NXB Văn học, Hà Nội, 1959, tr. 70, 71.
() NXB Văn học, Hà Nội, 1985.
() Nguyên Ngọc, Về một truyện ngắn : "Rừng xà nu", in trong Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, Hà Nội, 1994.
() Nguyên Ngọc, Về một truyện ngắn : "Rừng xà nu", Sđd.
(1) Hà Minh Đức, Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Giáo dục, 2004, tr. 11 - 12.
() Dẫn theo Nhật Khanh, bài Đầu năm trò chuyện với tác giả "Gặp gỡ cuối năm", báo Văn nghệ số 6, 7, năm 1991.
() Lời điếu của nhà văn Nguyên Ngọc trong tang lễ Nguyễn Minh Châu.
() NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1985.
() Dẫn từ bài Ngày xuân phỏng vấn các nhà văn, báo Văn nghệ, ngày 1 - 2 - 1986.
(*) Bài đọc thêm, GV dạy trong 1 tiết.
(1) Nhà văn t tởng và phong cách, NXB Tác phẩm mới, H., 1979.
(1), (2) Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung và phong cách, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
(1) Nhà văn, t tởng và phong cách, Sđd.
(1) Con đờng đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Sđd.
(1) Con đờng đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Sđd.
(2) Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung và phong cách, Sđd.
(1) Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung và phong cách, Sđd.

Tài liệu đính kèm:

  • docSach giao vie 12 t2.doc