Phân tích: Sóng – Hành trình tự khám phá chính mình – Hành trình tìm kiếm không mệt mỏi

Phân tích: Sóng – Hành trình tự khám phá chính mình – Hành trình tìm kiếm không mệt mỏi

Sóng – Hành trình tự khám phá chính mình –

Hành trình tìm kiếm không mệt mỏi

Xuân Quỳnh là gương mặt hàng đầu trong số các nhà thơ nữ hiện đại Việt Nam 1945 – 1975. Thơ Xuân Quỳnh “thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường” (Theo SGK).

 

doc 7 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 3957Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích: Sóng – Hành trình tự khám phá chính mình – Hành trình tìm kiếm không mệt mỏi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sóng – Hành trình tự khám phá chính mình – 
Hành trình tìm kiếm không mệt mỏi
Xuân Quỳnh là gương mặt hàng đầu trong số các nhà thơ nữ hiện đại Việt Nam 1945 – 1975. Thơ Xuân Quỳnh “thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường” (Theo SGK).
Bài thơ “Sóng” được nữ sĩ sáng tác năm 1967 lúc tác giả còn rất trẻ, và được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” của nữ sĩ, xuất bản năm 1968. Bài thơ là lời tự bạch của một tam hồn phụ nữ đang yêu. Có thể nói, đây là lần đầu tiên một nhà thơ nữ Việt Nam công khai bộc lộ trực tiếp tâm trạng yêu đương của mình một cách tự tin, có bản lĩnh đồng thời vẫn dung dị, tự nhiên, nhiều nữ tính.
Bài thơ vận dụng lối thơ năm chữ, không cắt nhịp, từng tiếng buông rơi thong thả, nối tiếp nhau khá đều đặn, tạo thành chu kỳ năm tiếng một, lặp đi lặp lại khoan thai, đều đặn. Thêm vào đó, còn là sự trở đi trở lại của các đơn vị âm thanh do lặp một số từ như “sóng”, “con song’, “em”, “gió”, “bờ” tạo nên. Những yếu tố đó đã có tác dụng đáng kể, giúp bài thơ có giọng điệu dào dạt, nhịp nhàng, gợi hình tượng các con sóng gối lên nhau, mênh mang trải rộng trên đại dương. Đó cũng là nhịp điệu trong tâm hồn người con gái đang yêu, một điệu hồn không yên tĩnh, luôn chảy trôi dào dạt với cảm xúc yêu đương tha thiết.
Khổ một diễn tả những trạng thái thất thường nhưng hồn hậu và cứng cỏi của một tâm hồn phụ nữ qua hình ảnh ẩn dụ “sóng”:
“Dữ dội và dịu êm
ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Trên đại dương, con sóng không đứng yên mà luôn dào dạt trôi từ cực nọ sang cực kia: khi “dữ dội”, “ồn ào”, lúc “dịu êm”, “lặng lẽ”. Cũng như vậy, tâm trạng người con gái đang yêu cũng luôn sôi đọng từ thái cực nọ sang thái cực kia, có gì như thất thường. Nó biểu hiện một tâm hồn phong phú và một khát vọng yêu đương mãnh liệt. Tuy nhiên, cái mà tâm hồn ấy hướng đến và đạt đến luôn là “dịu êm” và “lặng lẽ”. Đó là bản chất của một tiình yêu nhân hậu. Hai câu sau là tâm sự của “sóng’. Con sóng vốn ở sông nhưng “Sông không hiểu nổi mình” (tức là không hiểu nổi sóng, “mình” ở đây chính là “sóng” – con sóng tâm sự về mình) thì “sóng tìm ra tận bể. ở đó sóng mặc sức vẫy vùng, nó mới thật là nó, nó tìm thấy mình, cũng là tìm thấy tự do đích thực. Đây cũng chính là thái độ của người con gái đối với tình yêu. Cô sẵn sàng từ bỏ thứ tình yêu chật hẹp, ích kỷ để đến với tình yêu rộng lớn ma fở đó có sự đồng cảm giữa hai tâm hồn, cô được tự do sống hết mình, được phát huy mọi khả năng vốn có. Khát vọnh này soi sáng một bản lĩnh cứng cỏi, một tâm hồn có ý thức về địa vị, giá trị của mình và về quyền bình đẳng nam nữ. Nó là đặc điểm của người phụ nữ hiện đại. 
Tình yêu, đó vốn là khát vọng muôn thuở:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Sóng là vĩnh hằng: “Con sóng ngày xưa và ngày sau vẫn thế”, vẫn tồn tại với những đặc tính chung. Cũng vậy, khát vọng tình yêu là khát vọng muôn thuở của con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. ở họ, khát vọng này luôn “bồi hồi” trong trái tim, trong tình cảm (“trong ngực trẻ”). Từ láy “bồi hồi” cùgn với thán từ “ôi” trải thật nhiều tha thiết lên khổ thơ. Đó thực chất là niềm khát khao của chính nữ nhân vật. Cô gái đang nói một cách kín đáo, tế nhị về mình đó thôi. 
Đến khổ 3 và 4, Xuân Quỳnh phát biểu một hiện tượng tâm lý có tính quy luật trong tình yêu:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn 
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Yêu là vấn vương, bồi hồi, là xao động không yên nên chủ thẻ thường hay tìm cách lí giải, cắt nghĩa khá “lẩn thẩn”, lan man về tình yêu của mình. Cô gái trong bài thơ cũng vậy. Sóng đã gợi cho cô suy nghĩ về “anh”, “em” và về “biển lớn tình yêu”, đặc biệt là ngọn nguồn của nó: Tình yêu này bắt nguồn từ đâu? Cô gái mượn “sóng”, “gió” để tự hỏi và tự trả lời. Câu hỏi và câu trả lời của cô khá thông minh, hợp lý: “Từ nơi nào sóng lên? – Sóng bắt đầu từ gió”. Nhưng “Gió bắt đầu từ đâu?” thì cô gái đành chịu, không trả lời được. Và chăng, cứ đào bới tận gốc rễ thì mọi câu hỏi đều không có lời giải, huống chi tình yêu là thứ huyền diệu, bí ẩn, không thể cắt nghĩa được. Thực ra ý tưởng này không phải là sáng tạo của riêng Xuân Quỳnh. Khoảng 30 năm trước, Xuân Diệu đã từng viết: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” và ông đã tìm cách “cắt nghĩa” trong bài thơ của mình. Cái hấp dẫn của Xuân Quỳnh trong trường hợp này là ở cách cảm nhận và ở giọng điệu tự nhiên, nữ tính. Ta bắt gặp ở đây một lối cảm nhận và diễn tả trực cảm, kín đáo thông qua các ẩn dụ như “sóng”, “gió”. Cùng đó là lối nói khiêm nhường, dung dị, nhỏ nhẹ: “Em cũng không biết nữa – khi nào ta yêu nhau”. Xem ra cô gái cũng không hào hứng gì lắm với việc lý sự, triết lý, không muốn nặng đầu vào một ván đề phức tạp, nó vốn là thứ dành cho đàn ông. Hình như với cô, chỉ cần “ta yêu nhau” là đủ, là thứ cô quan tâm nhất, tha thiết nhất và cô đang có, thế thôi!
Các khổ tiếp theo, Xuân Quỳnh trình bày về tình yêu chung thủy. Tác giả dành cho nó hẳn 3 khổ thơ. Đây là vấn đề nhạy cảm với tâm lý phụ nữ phương đông. Sẽ không có gì khó hiểu khi trong ca dao đôi lứa, nhân vật trữ tình nữ thường băn khoăn và đòi hỏi sự chung tình của người bạn trai. Tiếng thơ Xuân Quỳnh ở đây cũng vậy. Nó đề cao long thủy chung, tạo cho tình yêu trong bài thơ một vẻ đẹp đạo đức, tình yêu gắn với đạo lý:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ tới anh 
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nhớ
Hướng về anh - một phương
ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Cô gái tâm sự về nỗi nhớ của mình. Nhớ là dấu hiệu của tình yêu, cũng là nhân tố giúp cô gái giữ vững lòng chung thủy. Cô tiếp tục nhờ “sóng” giãi bày hộ mình. “Sóng” lúc này, có khi tượng trưng cho nỗi nhớ của cô gái, có khi là chính cô, Trên biển cả, con sóng trải rộng lên mặt nước, chiếm hết lòng sâu, “ngày đêm khong ngủ được”. Đó là hình ảnh ẩn dụ biểu đạt nỗi nhớ rộng và sâu theo không gian, kéo dài triền miên theo thời gian, và rất mãnh liệt, làm đảo lộn sinh hoạt hàng ngày của cô gái như sóng kia “ngày đêm không ngủ được”. Nỗi nhớ còn le lỏi cả vào tiềm thức, vô thức cô: “Cả trong mơ còn thức”. Trong mơ nỗi nhớ ấy vẫn tỉnh thức, nó hiện diện bất tự giác, ngoài ý thức cô. Nỗi nhớ ở đây cơ hồ đã biến thành sự dày vò, nỗi trăn trở, dằn vặt. Thán từ “ôi”nhấn giọng, phép lặp các tiếng “con sóng”, từ ngữ đối lập “trên”/”dưới” đã gợi thật rõ cái da diết trăn trở ấy.
Hai khổ sau trực tiếp nói về lòng chung thủy. Lần này, cô gái tâm sự về mình trước, sau đó ví von với sóng. Hai câu đầu đối lập hướng đi, phương địa lý: “xuôi”/”ngược”, “bắc”/”nam”. Từ ngữ chỉ hướng dùng hơi “khập khiễng”, vượt chuẩn thông lệ: “xuôi về phương bắc”, “ngược về phương nam” ( vẫn thường nói: “xuôi nam ngựoc bắc”). Cách diễn đạt đó gợi ấn tượng về những vùng không gian bất thường, cách trở, khó khăn. Dù thế, nhân vật trữ tình chỉ có một hướng duy nhất: “Hướng về anh một phương”. Hai tiếng “một phương”, ngữ âm dứt khoát, có tác dụng khẳng định cái dứt khoát trong thái độ cô gái. Cô chỉ có một phương duy nhất để hướng đến, đó là phương “anh”! Dù không gian có thể có nam, bắc, tây, đông... Hình như khẳng định như thế vẫn chưa đủ, cô gái bộc lộ thêm bằng việc so sánh mình với sóng. ở ngoài đại dương, bờ luôn là cái đích của mọi con sóng, dù chúng phải vượt qua “muôn vời cách trở”. Cũng thế, chính tình yêu đã cho cô gái sức mạnh để vượt qua trở ngại tưởng chừng không vượt qua được như “muôn vời cách trở” ấy.
Phần còn lại của bài thơ, Xuân Quỳnh gửi gắm khát vọng tình yêu của mình. Khát vọng này xuất phát từ một cảm nhận về thời gian sinh mệnh:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Có người cho khổ thơ này thể hiện niềm lạc quan của tác giả, thấy cuộc đời còn dài, những gì mong ước rôid sẽ đạt được. Thực ra không phải thế! Đúng là khi viết bài thơ này, nữ sĩ còn rất trẻ – mới 24 tuổi – nên mới thấy đời còn dài. Nhưng ngẫm kĩ, tứ thơ ở đây được triển khai trong quan hệ đối lập “tuy.../nhưng...”: “cuộc đời tuy dài thế” nhưng “năm tháng vẫ qua đi” (hai câu sau cũng vậy). Theo tác giả, cuộc đời tuy dài nhưng không phải là vô hạn, bởi “năm tháng” (hoán dụ chỉ thời gian) vẫ trôi qua khiến đời người, trong đó có cái đẹp, tình yêu, hạnh phúc không thể tồn tại vĩnh viễn. Cũng như vậy, “biển” (ẩn dụ chỉ “biển đời”) “dẫu rộng” nhưng không “giữ “được “mây”: “Mây vẫn bay về xa”. “Mây” là biểu tượng của ước mơ, tình yêu và hạnh phúc. Tất cả rồi sẽ bay xa. Như thế, dẫu Xuân Quỳnh còn trẻ nhưng trong tâm hồn người phụ nữ nhạy cảm và nhiều khát vọng hạnh phúc này đã phấp phỏng lo âu một cách thầm kín về sự chảy trôi của thời gian, cái hữu hạn của cuộc đời. Cảm hứng thời gian này rất gần với cảm hứng thơ Xuân Diệu trước Cách mạng, tuy chưa tới mức “run rẩy”, “buốt xương da” bằng.
Cảm nhận thời gian ấy đã làm nảy sinh ở tác giả khát vọng: “Làm sao được tan ra – Thành trăm con sóng nhỏ – Giữa biển lơnư tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ “. Mong được tan ra thành trăm con sóng để trải rộng trên khắp “biển lơn tình yêu”, cũng là khát vọng được sống trọn vẹn, đầy đủ, sông shếta mình trong mọi cung bặc cảm xúc của tình yêu. Và sống mãi, yêu mãi như sóng kia “ngàn năm còn vỗ”. “Sóng” đã nói hộ cô gái khát vọng tình yêu của mình, một khát vọng không ầm ĩ nhưng cũng thật “vô biên”, “tuyệt đích” và “vĩnh viễn” rất gần với Xuân Diệu thời Thơ mới, chỉ là khồn “cao giọng” mà thôi, nó là điệu “nữ tính” của Xuân Quỳnh.
Điều cuối cùng đọng lại qua bài “Sóng” là, với Xuân Quỳnh, có thể nói “sóng” không khác gì sóng lòng của một cô gái đang yêu và sống hết mình với tình yêu ấy, dừ có thể rồi đây, cô sẽ phải trả giá đắt cho sự đốt cháy chính mình này. Cũng ở bài thơ này, với tác giả bao nhiêu đặc tính của sóng là bấy nhiêu đặc tính của tình yêu. Nói Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ của hnạh phúc đời thường, của tình yêu là vì vậy. Nó không chỉ biểu hiện tâm hồn mà còn biểu hiện tài năng của nữ sĩ. Rồi mai ngày, dẫu thời gian sẽ sàng lọc, nhưng một bài thơ như bài “Sóng” đây, chắc hẳn không đến nỗi bị các lứa đôi hoàn toàn lạnh nhạt.

Tài liệu đính kèm:

  • docSong Xuan Quynh(3).doc