A/. TÓM TẮT VỀ PHƯƠNG PHÁP:
− Có nhiều dạng nghị luận. Trong chương trình lớp 12, thường gặp là phân tích hay cảm nhận về một
ñoạn thơ và phân tích hay cảm nhận về một hình tượng trong bài thơ, ñoạn thơ.
− Nhất thiết các em phải nắm vững và thực hiện tốt bốn bước làm bài văn:
1. Bước thứ nhất: Tìm hiểu ñề.
− Phải xác ñịnh ñúng ba yêu cầu của ñề.
− Chú ý: Cần xác ñịnh rõ phân tích hay cảm nhận về ñoạn thơ hay hình tượng ñể nêu vấn ñề, giải quyết
vấn ñề và kết luận cho ñúng
TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG Thầy giáo Nguyễn Văn Ưng Trang 1 ÔN TẬP PHƯƠNG PHÁP LÀM VĂN NGHỊ LUẬN VỀ THƠ A/. TÓM TẮT VỀ PHƯƠNG PHÁP: − Có nhiều dạng nghị luận. Trong chương trình lớp 12, thường gặp là phân tích hay cảm nhận về một ñoạn thơ và phân tích hay cảm nhận về một hình tượng trong bài thơ, ñoạn thơ. − Nhất thiết các em phải nắm vững và thực hiện tốt bốn bước làm bài văn: 1. Bước thứ nhất: Tìm hiểu ñề. − Phải xác ñịnh ñúng ba yêu cầu của ñề. − Chú ý: Cần xác ñịnh rõ phân tích hay cảm nhận về ñoạn thơ hay hình tượng ñể nêu vấn ñề, giải quyết vấn ñề và kết luận cho ñúng. 2. Bước thứ hai: Lập dàn ý. − Nhớ dàn ý chung, căn cứ ñề bài và kiến thức ñọc – hiểu mà lập ra dàn ý phù hợp. − Sau ñây là dàn ý chung cho bài phân tích hay cảm nhận về ñoạn thơ hoặc hình tượng. Mở bài: − Giới thiệu tác giả, dẫn vào bài thơ. Nêu vấn ñề theo ñề bài, dẫn vào ñoạn thơ. Ghi ñoạn thơ. Thân bài: 1. Khái quát về bài thơ, ñoạn thơ: − Giới thiệu xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, tóm tắt nội dung, bố cục bài thơ. − Nêu vị trí ñoạn thơ. 2. Giải quyết vấn ñề: − Căn cứ nội dung, chia ñoạn thơ thành từng ñoạn nhỏ (dẫn chứng). Ghi tóm tắt ý chính về nội dung, nghệ thuật cần phân tích. − ðối với cảm nhận, nên nêu ngắn gọn cảm nhận chung trước khi ghi tóm tắt ý chính cần làm rõ. Kết bài: − Kết luận chung về nội dung, nghệ thuật ñoạn thơ. Có thể mở rộng ý nghĩa của ñoạn thơ, nêu cảm nghĩ từ vấn ñề hoặc cảm nghĩ về tác giả hay bài thơ. − Nếu nghị luận về hình tượng thì kết luận chung về hình tượng, nghệ thuật xây dựng hình tượng. Mở rộng ý nghĩa của hình tượng, nêu cảm nghĩ từ hình tượng hay tác giả tác phẩm. ðối với dạng bài phân tích bài thơ, cảm nhận về hình tượng trong bài thơ, sẽ bỏ phần giới thiệu ñoạn thơ trong mở bài, không có giới thiệu vị trí ñoạn thơ trong thân bài và kết bài thì kết luận về bài thơ. Tham khảo ñề 3. 3. Bước thứ ba: Viết bài. Cần chú ý một số ñiểm chính sau: ∗ Viết mở bài: − Giới thiệu tác giả tác phẩm ngắn gọn (3-5 câu). Nêu vấn ñề ñúng theo ñề bài. − Ghi nguyên văn ñoạn thơ nếu ñoạn thơ không quá 12 câu (theo ví dụ ñề 2). − Nếu ñoạn thơ dài trên 12 câu; hoặc giới thiệu tác giả, tác phẩm, nêu vấn ñề ñã hơi dài thì ghi ñoạn thơ theo cách ghi ở ví dụ ñề 1. − Phân tích hay cảm nhận về ñoạn thơ mà không giới thiệu ñoạn thơ là lạc ñề. − Phân tích hay cảm nhận về hình tượng trong ñoạn thơ mà không giới thiệu hình tượng và ñoạn thơ là lạc ñề. − Mở bài lạc ñề, nếu thân bài vẫn ñúng vấn ñề thì tối ña chỉ ñạt trung bình ñiểm số câu làm văn. TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG Thầy giáo Nguyễn Văn Ưng Trang 2 ∗ Viết kết bài: − Kết luận về vấn ñề: Nhất ñịnh phải tóm lược nội dung, nghệ thuật của ñoạn thơ; hoặc tóm lược về ñặc ñiểm hình tượng, nghệ thuật xây dựng hình tượng. − Sau khi ñánh giá có thể mở rộng ngắn gọn ý nghĩa của ñoạn thơ hay hình tượng và có thể nêu cảm nghĩ về tác giả, tác phẩm. − Nghị luận về ñoạn thơ hay hình tượng mà không kết luận về ñoạn thơ hay hình tượng là lạc ñề, cũng bị ñánh giá như mở bài lạc ñề. − Nếu cả mở bài, kết bài lạc ñề (dù thân bài vẫn ñúng vấn ñề) thì cầm chắc sẽ dưới ñiểm trung bình ở câu làm văn. ∗ Viết thân bài: Ở ñây chỉ nói lúc viết phần giải quyết vấn ñề của bài phân tích (cảm nhận) về ñoạn thơ, hình tượng thơ: − Phải có giới thiệu trước khi trích dẫn chứng, bằng cách nêu vị trí dẫn chứng hay nêu tóm tắt nội dung dẫn chứng hoặc kết hợp cả hai. Dẫn chứng nguyên văn phải ñể trong ngoặc kép. − Nên phân tích song song nội dung, nghệ thuật. Căn cứ nghĩa từ ngữ, sử dụng kết hợp các thao tác lập luận (chủ yếu là phântích) làm rõ các biện pháp nghệ thuật, dùng liên tưởng, tưởng tượng ñể ñánh giá nội dung, tìm ra hàm ý của dẫn chứng. Khi phân tích, nếu trích từ ngữ từ dẫn chứng lồng vào lời văn của mình thì phải ñể từ ngữ ấy vào ngoặc kép. − ðối với bài cảm nhận có thể bằng cách nêu cảm nhận rồi trích thơ, phân tích làm rõ. − Khi phân tích hay trình bày cảm nhận có thể ñưa tư liệu liên quan ñể so sánh hay minh họa thêm cho ý phân tích, cảm nhận. − Lựa chọn từ ngữ và viết câu: ðể hạn chế bớt lỗi dùng từ sai, cần chú ý: từ nào không hiểu nghĩa thì không dùng. Viết câu sau, nhìn qua câu trước ñể không bị lặp từ không cần thiết và ñể ý câu sau logic với câu trước, ñể có sự liên kết câu. Có khi lặp từ hay cấu trúc câu nhưng là phải nhằm mục ñích nhấn mạnh ý hay tạo giọng ñiệu. Trước khi chấm câu, ñọc nhanh lại câu vừa viết, thấy có ñược một dung thông báo nào ñó mới chấm câu. Chú ý dùng dấu phẩy ñể tách các vế câu hay thành phần ñồng chức. − Tuyệt ñối không gạch ñầu dòng, dùng mũi tên, viết tắt tùy tiện theo thói quen ghi bài học trên lớp. Phải chú ý viết hoa các danh từ riêng (tên người, tên ñịa danh). Tên tác phẩm phải ñể vào trong ngoặc kép “”. 4. Bước thứ tư: Kiểm tra lại bài làm. − Bước này thường tiến hành sau khi làm xong bài. Kiểm tra ñể sửa chữa những lỗi nhỏ như dấu câu, lỗi chính tả, một vài từ cần sửa. Không thể “sửa chữa lớn” sau khi ñã làm xong bài. − Muốn vậy phải có dàn ý, viết theo dàn ý. Có thể có ñiều chỉnh dàn ý nhưng cơ bản là trung thành với dàn ý. Phải kiểm tra kĩ lại dàn ý trước khi làm bài. − Chú ý: Khi muốn gạch bỏ một từ, một câu hay một ñoạn: dùng thước, lấy bút gạch một gạch giữa những chữ cần bỏ, không ñể trong ngoặc ñơn (như khá nhiều học sinh vẫn làm). B/. VÍ DỤ MINH HỌA: Dưới ñây là ví dụ minh họa cho ba bước làm bài, các em tham khảo. Chú ý: Trong bài làm tham khảo, những câu in ñậm là vấn ñề và những ý phân tích, giới thiệu dẫn chứng, liên kết ý. ðề 1: Cảm nhận của anh (chị) về ñoạn thơ sau trong bài “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu” “Những ñường Việt Bắc của ta Vui lên Việt Bắc ñèo De, núi Hồng” Bài làm tham khảo TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG Thầy giáo Nguyễn Văn Ưng Trang 3 Thơ ca Việt Nam trong quá trình hiện ñại hóa nền văn học dân tộc giai ñoạn 1930 – 1945 ñã ñạt ñược những thành tựu vô cùng rực rỡ. Trong khi thi ñàn Thơ mới xuất hiện tên tuổi chói lọi của các nhà thơ lãng mạn như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, ... thì Tố Hữu – một nhà thơ cách mạng trẻ tuổi – ñã âm thầm gieo vào vườn thơ yêu nước một hạt giống mang tên “Từ ấy”; ñể rồi sau ñó, ñã có những bông hoa nở rộ với các tên “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”, ðó là những bông hoa của “cây ñời” Tố Hữu, ñó chính là những tập thơ lớn của nhà thơ Tố Hữu. Bài thơ “Việt Bắc” trong tập thơ cùng tên, ñược coi là thi phẩm thành công nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. ðọc “Việt Bắc” ta cảm nhận ñược ñây là một bài thơ sâu sắc về nội dung, ñộc ñáo về nghệ thuật mà tiêu biểu là ñoạn thơ: Từ câu: “Những ñường Việt Bắc của ta” ðến câu: “Vui lên Việt Bắc, ñèo De, núi Hồng” Sau khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940, Việt Bắc trở thành căn cứ ñịa của cách mạng, nơi Bác Hồ và Trung ương ðảng lãnh ñạo công cuộc ñấu tranh giải phóng dân tộc ñến khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Năm 1946, thực dân Pháp tái chiếm nước ta, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Hà Nội rơi vào tay giặc, Việt Bắc, một lần nữa, trở thành nơi bảo vệ, chở che cho trung tâm ñầu não kháng chiến, là nơi ở và làm việc của Bác Hồ, của trung ương ðảng và Chính phủ. Chiến dịch ðiện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, Hiệp ñịnh Giơnevơ về ðông Dương ñược kí kết (tháng 7-1954), hòa bình trở lại, miền Bắc nước ta ñược giải phóng và bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử mới của ñất nước ñược mở ra. Tháng 10-1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương của ðảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ ñô. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. “Việt Bắc” là một bài thơ dài gồm 150 câu lục bát với hai phần lớn: phần ñầu tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến, phần sau gợi viễn cảnh tươi sáng của ñất nước và ngợi ca công ơn của ðảng, Bác Hồ với dân tộc. Bài thơ có kết cấu ñối ñáp với hai nhân vật trữ tình “mình – ta”: người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến trong buổi chia tay ñầy lưu luyến, xúc ñộng. ðoạn thơ trên nằm trong phần ñầu của bài thơ và là lời ñáp của người cán bộ cách mạng về xuôi với lời hỏi của người Việt Bắc ở lại. ðọc ñoạn thơ này ta cảm nhận ñược: bằng nhiều biện pháp nghệ thuật ñặc sắc, nhà thơ Tố Hữu ñã tái hiện ñược khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong những ngày quân và dân ta mở chiến dịch cuối cùng tấn công vào sào huyệt của thực dân Pháp và tin vui thắng lợi vang ñội khắp nơi. Hai câu ñầu ñoạn thơ, tác giả ñã phác họa ñược một cách khái quát bức tranh toàn cảnh quân dân ta ra trận chiến ñấu với khí thế hào hùng, sôi sục, khẩn trương: “Những ñường Việt Bắc của ta ðêm ñêm rầm rập như là ñất rung” Hai cụm từ “những ñường Việt Bắc ñêm ñêm”, ñã gợi ra ñược không gian rộng lớn và thời gian ñằng ñẵng của cuộc kháng chiến vĩ ñại, trường kì. Khí thế xung trận ñược cảm nhận bằng âm thanh “rầm rập” – từ láy tượng thanh này cùng với cách so sách “như là ñất rung”, không chỉ diễn tả ñược tiếng ñộng mạnh của bước chân mà còn giúp người ñọc hình dung ñược nhịp ñộ khẩn trương, gấp gáp của một lượng người ñông ñảo ñang cùng hành quân về một hướng. Tất cả tạo thành một sức mạnh tổng hợp làm rung chuyển cả mặt ñất. Tác giả dùng cách so sánh mang tính cường ñiệu “rầm rập như là ñất rung” ñể nêu bật sức mạnh ñại ñoàn kết của quân dân ta, thực hiện “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Bác Hồ kính yêu, quyết tâm chiến ñấu bảo vệ ñộc lập, tự do của Tổ quốc. Qua không gian rộng lớn, thời gian ñằng ñẵng và khí thế hào hùng ở Việt Bắc, có thể thấy rõ cuộc kháng chiến chống Pháp là trường kì, gian TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG Thầy giáo Nguyễn Văn Ưng Trang 4 khổ, nhưng dân tộc Việt Nam không nhụt chí, trái lại, vẫn vững vàng, kiên cường, chung sức chung lòng, ñưa cuộc kháng chiến ñến thắng lợi. Hai câu thơ tiếp miêu tả cụ thể hình ảnh bộ ñội ta hành quân ra trận: “Quân ñi ñiệp ñiệp trùng trùng Anh sao ñầu súng bạn cùng mũ nan” ðó là hình ảnh vừa hào hùng, vừa lãng mạn. Từ láy “ñiệp ñiệp trùng trùng” khắc họa ñoàn quân ñông ñảo, bước ñi mạnh mẽ như những ñợt sóng dâng trào, ñợt này nối tiếp ñợt khác, tưởng như kéo dài ñến vô tận. Hình ảnh “mũ nan” gợi ra sự thiếu thốn, ñơn sơ trong trang bị của người lính, nhưng ñoàn quân “ñiệp ñiệp trùng trùng” chính là hình ảnh tượng trưng cho sự trưởng thành vượt bậc của quân ñội ta, của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến. Trong “những ñêm dài hành quân nung nấu” (Nguyễn ðình Thi), ở ñầu súng của người lính ngời sáng “ánh sao”. ðó là ánh sao hiện thực trong ñêm tối, ñó cũng là hình ảnh ẩn dụ: “ánh sao” của lí tưởng chỉ ñường dẫn lối cho người chiến sĩ ñánh ñuổi kẻ thù bảo vệ ñất nước. Hình ảnh ấy gợi liên tưởng tới hình ảnh “ñầu súng trăng treo” trong bài thơ “ðồng chí” của nhà thơ Chính Hữu. Có ñiều, ánh trăng trong thơ Chính Hữu là hình ảnh tượng trưng cho khát vọng hòa bình. Còn ở ñoạn thơ này, “ánh sao” lại là biểu tượng của lí tưởng, của niềm lạc quan chiến thắng trong tâm hồn người lính ra trận. Vào chiến dịch, không chỉ có bộ ñội ra trận mà nhân dân ta ở bất cứ nơi ñâu cũng hăng hái góp sức mình vào cuộc ... ơ của ông vẫn còn vang mãi trong những con tim dạt dào tình yêu lí tưởng, yêu nước, yêu ñồng bào. Hãy tưởng nhớ ñến Tố Hữu bằng bài thơ cuối cùng của ông: “Xim tạm biệt ñời yêu quí nhất Còn mấy vần thơ, một nắm tro Thơ gởi bạn ñường, tro bón ñất Sống là cho và chết cũng là cho.” * ðỀ 3: Trình bày cảm nhận về hình tượng “sóng” trong bài thơ cùng tên của nhà thơ Xuân Quỳnh. Bài làm tham khảo Trong nền thơ ca Việt Nam hiện ñại, nếu như Xuân Diệu ñược coi là “ông hoàng của thơ tình” thì Xuân Quỳnh cũng có thể ñược gọi là “nữ hoàng của tình yêu”. Sinh ra ở Hà Tây, lớn lên ở Hà Nội, Xuân Quỳnh ñã từng làm diễn viên múa, sau chuyển sang làm báo và làm thơ. Ngay từ những tác phẩm ñầu tay, Xuân Quỳnh ñã bộc lộ một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, tươi mới và sôi nổi khát vọng. Thơ Xuân Quỳnh thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc ñời thường. Trong ñề tài tình yêu, nữ sĩ ñã có nhiều thi phẩm ñể lại dấu ấn sâu sắc cho người ñọc. Bên cạnh “Thuyền và biển”, “Sóng” là một bài thơ sống mãi với thời gian, sống mãi trong trái tim tuổi trẻ và cả những ai “trẻ lòng”. Trong bài thơ này, tác giả ñã xây dựng thành công hình tượng sóng, một hình tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa. “Sóng” ra ñời tại biển Diêm ðiền tháng 12 năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968). Bài thơ miêu tả về sóng biển và diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình “em”, người phụ nữ ñang yêu. Trong bài thơ, “sóng” luôn ở bên cạnh “em” ñể tương ñồng, cộng hưởng, ñể diễn tả về “em”. Trong thế giới tự nhiên thiên hình vạn trạng, ngàn sắc muôn màu, sóng là một hình ảnh ñẹp, một kì công của tạo hóa. Trong thơ ca, sóng trở thành một hình tượng biểu ñạt những sắc thái tình cảm khác nhau của các thi nhân. Với nhà thơ Huy Cận, sóng gợi lên một nỗi buồn trùng ñiệp, triền miên: “Sóng gợn tràng giang buồn ñiệp” (Tràng giang). Với nhà thơ Thâm Tâm, sóng lại trở thành hình ảnh biểu trưng cho những xao ñộng cõi lòng trong một buổi ñưa tiễn:“ðưa người, ta không ñưa qua sông – Sao có tiếng sóng ở trong lòng” (Tống biệt hành). Nhà thơ Chế Lan Viên thì nhìn sóng như một vật trung gian ngăn cách hai kẻ yêu nhau:“Sắp gặp em rồi sóng lại ñẩy xa thêm” (Chùm nhỏ thơ yêu). Còn thi sĩ ña tình Xuân Diệu lại “xin làm sóng biếc” ñể “ào ạt, như nghiền nát bờ em” (Biển). Nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng dùng sóng làm một hình tượng nghệ thuật, nhưng sóng ñã trở thành một ñối tượng ñể nhà thơ diễn tả những trạng thái tâm hồn, những suy tư về một tình yêu nồng nàn, ñắm say, dào dạt, thủy chung và vĩnh hằng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao, con sóng của ñại dương, con sóng trong lòng người con gái ñang yêu khi ñứng trước biển ngắm nhìn những con sóng bất tận, vô hồi. Sóng trong bài thơ của Xuân Quỳnh là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân cái “tôi” trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hòa nhập, lúc lại là sự phân thân của “em”, người con gái ñang yêu một cách say ñắm. Sóng ñã khơi gợi cảm hứng dào dạt cho một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, tươi mới và sôi nổi khát TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG Thầy giáo Nguyễn Văn Ưng Trang 10 vọng. Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh ñã có một cách nói rất hay ñể diễn tả tâm trạng và tình yêu nồng nhiệt của người con gái. Mở ñầu bài thơ, tác giả miêu tả ñặc ñiểm của sóng: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể” Bằng tương phản, nhà thơ ñã miêu tả hai trạng thái ñối lập của sóng. Thật chính xác, những khi bão tố, biển ñộng, sóng trào lên “dữ dội – ồn ào” như giận dữ, như muốn nghiền nát cả bờ. Nhưng những lúc trời êm, biển lặng thì sóng chỉ rì rào “dịu êm – lặng lẽ”. ðối với sóng, sông là nhỏ hẹp, sóng chỉ có thể “dịu êm, lặng lẽ” nên sóng phải “tìm ra tận bể”, nơi mênh mông, thoáng rộng mới có thể “dữ dội, ồn ào”. Quả thật ñúng như vậy, có ñến nơi biển rộng trời cao, sóng mới có thể thỏa sức vẫy vùng. Miêu tả về sóng như thế ñã là thật ñúng, thật hay. Nhưng ñặt trong mối quan hệ giữa “sóng” và “em” thì việc miêu tả sóng còn có ý nghĩa là ñể diễn tả trạng thái tâm hồn và khát vọng của người phụ nữ ñang yêu, ñây mới là ý nghĩa chủ yếu của hình tượng sóng. Hai tính chất ñối lập của sóng cũng là hai trạng thái tâm hồn của người con gái khi yêu. Khi ấy, lòng người con gái cũng như sóng: có lúc ồn ào, sôi nổi, mãnh liệt những khát khao cháy bỏng; nhưng cũng có lúc lại lặng lẽ, suy tư, mơ màng ñi vào chiều sâu của tâm hồn với những nhớ mong, chờ ñợi. Lòng người con gái ấy còn khát khao vượt ra khỏi những cái tầm thường nhỏ bé, ñể tìm ñến những miền bao la, vô tận, vĩnh cửu giữa cuộc ñời, ñể sống hết mình, giống như con sóng kia từ những dòng sông giới hạn bởi ñôi bờ chật chội, phải tìm về với biển cả mênh mông. Khổ thứ hai của bài thơ, tác giả nhận xét về sóng, từ ñó liên tưởng ñến tình yêu của con người: “Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ” Nhà thơ ñã nhận xét thật chính xác về hiện tượng sóng. Ngày xưa và ngày sau, con sóng vẫn thế, vẫn “dữ dội và dịu êm – ồn ào và lặng lẽ”, vẫn tồn tại vĩnh hằng; cũng như tình yêu luôn là khát vọng muôn ñời, là nhu cầu cần phải có của tuổi trẻ. Nhà thơ Xuân Diệu cũng từng khẳng ñịnh: “Làm sao sống ñược mà không yêu Không nhớ không thương một kẻ nào” (Bài thơ tuổi nhỏ) ðối với nữ sĩ Xuân Quỳnh, sóng còn là ñối tượng ñể nhà thơ thể hiện những suy nghĩ, quan niệm về tình yêu. Trước sóng bể muôn trùng, nhà thơ “nghĩ về anh, em”, “nghĩ về biển lớn”: “Từ nơi nào sóng lên ? Sóng bắt ñầu từ gió Gió bắt ñầu từ ñâu ? Em cũng không biết nữa” Tác giả tìm và lí giải về nguồn gốc của sóng bằng cách ñặt ra những câu hỏi và tự trả lời. Câu hỏi thứ nhất: “Từ nơi nào sóng lên ?”, câu trả lời: “Sóng bắt ñầu từ gió”. Câu hỏi thứ hai: “Gió bắt ñầu từ ñâu ?”, không có câu trả lời, bởi sóng là một qui luật, qui luật của tự nhiên. Từ việc lí giải nguyên nhân của hiện tượng sóng, nhà thơ lí giải về sự khởi ñầu của tình yêu. Và cũng như sóng, không thể lí giải ñược tình yêu bắt ñầu từ khi nào: “Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”. Nếu như sóng là một qui luật của tự nhiên thì tình yêu là qui luật của tâm hồn. Không thể ép buộc, không thể bán mua, không thể chiếm ñoạt, tình yêu ñích thực chỉ có thể có ñược khi có những rung ñộng tình cảm từ trong lòng người TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG Thầy giáo Nguyễn Văn Ưng Trang 11 và hơi thở của trái tim. ðây là một bài học nhân sinh thiết thực cho tuổi trẻ, những người ñang ñứng trước ngưỡng của của tình yêu. Quan sát sóng biển, tác giả còn nhận ra một ñặc diểm khác của sóng ñó là sóng luôn vỗ bờ. Một hiện tượng bình thường ai cũng biết nhưng nhà thơ Xuân Quỳnh lại có cách diễn tả thật ñộc ñáo: “Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày ñêm không ngủ ñược” Nhà thơ ñã có một nhận xét thật tinh vi, chính xác về sóng. Dù ở dưới lòng sâu hay ở trên mặt nước thì con sóng cũng luôn vỗ bờ. Dưới ngòi bút Xuân Quỳnh, bằng phép nhân hóa, con sóng vô tri như có tâm hồn , tâm trạng. Nỗi nhớ của sóng với bờ thật tha thiết, sâu nặng. Nỗi nhớ choán hết cả không gian và chiếm trọn cả thời gian. Từ nỗi nhớ của sóng với bờ, nhà thơ liên tưởng ñến nỗi nhớ người yêu của mình: “Lòng em nhớ ñến anh Cả trong mơ còn thức” Cũng như sóng, nỗi nhớ của “em” với “anh” thiết tha, rạo rực, thao thức, trải dài theo thời gian ngày và ñêm. Nhưng hơn cả sóng, nỗi nhớ còn tràn về trong những giấc mơ. Cách diễn tả nỗi nhớ của nhà thơ thật ñộc ñáo: “thức” trong “mơ” ñể nhớ. Nghĩa là, nỗi nhớ dù có khi lắng xuống nhưng không hề mất ñi. Nỗi nhớ không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn ñi cả vào trong tiềm thức. ðây cũng là một quan niệm của nhà thơ Xuân Quỳnh về tình yêu. Tình yêu chân chính phải là những tình cảm chân thành, sâu nặng. Tình cảm ấy ñược biểu biểu hiện bằng nỗi nhớ thiết tha, cháy bỏng khi xa nhau. Không chỉ vậy, ñối với nhà thơ Xuân Quỳnh, tình yêu chân chính còn là sự thủy chung duy nhất, tuyệt ñối. Dẫu “xuôi về phương Bắc” hay “ngược về phương Nam”, ở bất cứ “nơi nào” thì em cũng luôn “hướng về anh một phương”. Tác giả ñã dùng hình tượng sóng ñể minh họa cho ñiều ấy: “Ở ngoài kia ñại dương Trăm ngàn con sóng ñó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở” Lại một lần nữa ta nhận thấy sự tinh tế của nhà thơ trong nhận xét về sóng. Quả thực như vậy, ñại dương bao la với trăm ngàn con sóng, dù cách trở bao nhiêu, con sóng cũng luôn hướng vào bờ cũng như em luôn hướng về anh. Trong Thơ mới trước cách mạng, thi sĩ Xuân Diệu ñã nhận ra và nói về qui luật của tạo hóa với cuộc ñời con người: “Còn trời ñất nhưng chẳng con tôi mãi”. Vũ trụ là vĩnh hằng, ñời người là hữu hạn. Ở ñây cũng vậy, nhà thơ Xuân Quỳnh cũng ý thức ñược ñiều ñó: “Cuộc ñời tuy dài thế – Năm tháng vẫn ñi qua”. Song không hốt hoảng, “vội vàng” như Xuân Diệu, nhà thơ trầm tĩnh suy tư tìm cách cho tình yêu của mình còn mãi, vĩnh hằng với thời gian. Hình tượng sóng ñã giúp nhà thơ diễn tả khát vọng ñó: “Làm sao ñược tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu ðể ngàn năm còn vỗ” Con sóng hòa vào biển lớn, con sóng vỗ mãi ngàn năm. Tình yêu của con người muốn tồn tại mãi với thời gian phải ñem tình yêu cá nhân hòa với tình yêu lớn, tình yêu nhân dân, Tổ quốc. ðó là một khát vọng cao ñẹp, khát vọng mang tính cộng ñồng. Hình tượng sóng trong bài thơ ñược xây dựng bằng nghệ thuật ñặc sắc với các từ ngữ, hình ảnh chọn lọc; các biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhân hóa, Song có lẽ sự phù hợp giữa hình thức và nội dung thể hiện rõ nhất là việc lựa chọn thể thơ. Viết về sóng biển, nhà thơ Xuân Quỳnh ñã sử dụng thể thơ TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG Thầy giáo Nguyễn Văn Ưng Trang 12 năm chữ, nhịp ñiệu ngắn với cách gieo vần chân ở câu cuối của khổ thơ trên với câu ñầu của khổ thơ dưới tạo nên sự liền mạch: Bồi hồi trong ngực “trẻ” – Trước muôn trùng sóng “bể”; khi nào ta yêu “nhau” – con sóng dưới lòng “sâu”; Tất cả ñã diễn tả ñược âm ñiệu nhịp nhàng, triền miên của sóng, lúc mạnh mẽ ồn ào, khi dịu êm lặng lẽ, khi day dứt bồn chồn. Sóng trên ñại dương cũng là sóng trong lòng người. Cái hay của bài thơ là ở âm ñiệu ấy. Tóm lại, sóng là một hình tượng nghệ thuật ñặc sắc của nhà thơ Xuân Quỳnh. ðứng bên cạnh hình tượng “em”, sóng ñã góp phần diễn tả những tâm trạng, suy nghĩ của nhà thơ – người phụ nữ ñang yêu. Qua hình tượng sóng và cả bài thơ, chúng ta cảm nhận ñược vẻ ñẹp trẻ trung, tâm hồn trong sáng, ña tình của người con gái. Người con gái ấy chủ ñộng bày tỏ những khát khao, những rung ñộng rạo rực của lòng mình trong tình yêu. ðó là những suy nghĩ sâu sắc, những quan niệm ñúng ñắn, tiến bộ về một tình yêu chân chính. ðã có những vần ca dao mộc mạc mà tinh tế nói về tình yêu trai gái làng quê; ñã có bao thi phẩm ñặc sắc về tình yêu trong thơ ca hiện ñại; nhưng “Sóng” của nữ sĩ tài hoa yểu mệnh Nguyễn Thị Xuân Quỳnh vẫn tồn tại mãi trong lòng người yêu thơ, tồn tại mãi với thời gian như con sóng vĩnh hằng “ngàn năm còn vỗ” * * * Biên Hòa, 27-28 tháng 4 năm 2009
Tài liệu đính kèm: