Một số bài phân tích mẫu môn ngữ văn

Một số bài phân tích mẫu môn ngữ văn

Người trong bao

Bài 1

 Lịch sử xã hội Nga thế kỉ XIX là lịch sử một thế kỉ không ngừng đấu tranh chống ách nông nô chuyên chế. Văn học hiện thực Nga thế kỉ XIX ra đời, phát triển trở thành một trong những nền văn học tiên tiến nhất của nhân loại. Các nhà văn Nga đã trưởng thành và cống hiến cho nhân loại những giá trị văn hoá tinh thần cao quý. A. Sê-khốp được coi là người đại biểu kiệt xuất cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỉ XIX. Trong lĩnh vực truyện ngắn, ông là nhà cách tân nghệ thuật thiên tài. Truyện của ông thường đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội và nhân bản sâu xa.

 

doc 12 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1511Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Một số bài phân tích mẫu môn ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số bài phân tích mẫu môn ngữ văn
Người trong bao
Bài 1
 Lịch sử xã hội Nga thế kỉ XIX là lịch sử một thế kỉ không ngừng đấu tranh chống ách nông nô chuyên chế. Văn học hiện thực Nga thế kỉ XIX ra đời, phát triển trở thành một trong những nền văn học tiên tiến nhất của nhân loại. Các nhà văn Nga đã trưởng thành và cống hiến cho nhân loại những giá trị văn hoá tinh thần cao quý. A. Sê-khốp được coi là người đại biểu kiệt xuất cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỉ XIX. Trong lĩnh vực truyện ngắn, ông là nhà cách tân nghệ thuật thiên tài. Truyện của ông thường đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội và nhân bản sâu xa.
Viết trong bối cảnh xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế nông nô bảo thủ nặng nề thế kỉ XIX, truyện ngắn Người trong bao đã phản ánh một cách chân thực sinh động bộ mặt xã hội và hình ảnh con người. Tập trung vào chủ đề “con người bé nhỏ”, Sê-khốp bên cạnh sự cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của con người, còn phê phán nghiêm khắc những tật xấu của họ. Đặc biệt, môi trường xã hội bảo thủ nặng nề đã đẻ ra những thứ sản phẩm người “quái thai”, “kì dị” rất đáng phê phán và loại bỏ. Hình tượng “người trong bao” là một phát hiện nghệ thuật của nhà văn. Hình ảnh con người mắc chứng bệnh sợ hãi, bạc nhược đến nỗi sống và chết một cách thảm hại đã khái quát một triết lí sâu sắc tiếp nối chủ đề “con người thừa” trong văn học Nga suốt thế kỉ XIX.
Nhân vật Bê-li-cốp – "người trong bao", được nhà văn xây dựng bằng những thủ pháp nghệ thuật phong phú. Nhà văn vừa miêu tả chân dung thói quen sinh hoạt của nhân vật, vừa sử dụng lời đối thoại trực tiếp của nhân vật đi kèm với lời người kể chuyện tạo cho người đọc có cái nhìn toàn diện về nhân vật.
Cách miêu tả chân dung thói quen sinh hoạt của nhân vật Bê-li-cốp khá đặc biệt thể hiện một sự quan sát chi tiết, kĩ lưỡng. Lúc nào cũng vậy, Bê-li-cốp đều đi giày cao su, cầm ô và nhất thiết mặc áo bành tô ấm cốt bông. Ông ở trong bao, chiếc đồng hồ quả quýt để trong bao và chiếc dao nhỏ gọt bút chì cũng ở trong bao. Bê-li-cốp với mắt đeo kính râm, mặc áo bông chần, lỗ tai nhét bông, ngồi xe ngựa thì thu mình lại. Có vẻ như một bộ dạng hài hước đến phi lí nhưng ngay cả bộ mặt của hắn “dường như cũng ở trong bao”. Hình ảnh cái bao như một ám ảnh đối với người kể chuyện khi tả lại chân dung Bê-li-cốp. Tưởng như cái bao đó là một tấm vỏ đáng sợ gói chặt hắn đến ngạt thở, làm tấm ngăn cách hắn với cuộc sống bên ngoài. Người kể chuyện vẫn còn kể thêm chi tiết “Cả ý nghĩ của mình, Bê-li-cốp cũng cố giấu vào bao”. Tưởng như thâm hiểm, thần bí lắm nhưng thực chất đó là một kiểu người kì quặc đến quái dị. Ngay cả “thói quen” của hắn cũng rất lạ. Việc đi hết nhà này đến nhà khác không nói không rằng, mắt nhìn xung quanh như kiếm vật gì rồi lại cáo từ làm người ta hoảng sợ. Hắn cho đó là cách duy trì mối quan hệ tốt đẹp. Sự im lặng – “trong bao” ấy như hàm chứa trong đó một sự bảo thủ trì trệ, ngu dốt, bạc nhược đến thảm hại.
Tự giam mình trong bao, hắn sống cũng rất “thảm hại”. Buồng ngủ “chật như cái hộp”, cửa sổ đóng kín mít, khi ngủ “kéo chăn trùm đầu kín mít”... Nhưng Bê-li-cốp nằm trong chăn rồi vẫn thấy sợ. Một nỗi sợ vô hình bao trùm hắn. Thức, hắn sợ. Mơ, hắn cũng sợ. Những giấc mơ khủng khiếp để lại cho hắn nét mặt tái nhợt, rầu rĩ. Tâm lí sợ hãi giống như một bóng ma vây lấy hắn, nhưng kì lạ là các nhân vật khác cũng hoảng sợ “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách”. Một sự mê muội hoang tưởng của những kẻ hèn yếu. Những kẻ tự giam mình trong vỏ ốc cá nhân ích kỉ bạc nhược, những kẻ không dám đấu tranh vượt lên chính mình. Hình ảnh dân chúng trong vòng mươi, mười lăm năm trở lại đây đâm ra sợ hãi khiến người đọc có những liên tưởng thú vị. Đây phải chăng là diện mạo chung cho cả xã hội nông nô chuyên chế Nga hoàng bảo thủ khắc nghiệt. Một bầu không khí u ám đến ngạt thở mà tất cả đều tự nhốt mình trong bao. Cả xã hội – ở mức độ này hay mức độ khác, đều là người trong bao.
Cách đối thoại trực tiếp của Bê-li-cốp với Cô-va-len-cô càng bộc lộ rõ hơn tính cách “người trong bao”. Lại là một chuyện phi lí khi Bê-li-cốp cho rằng đi xe đạp “hoàn toàn không phù hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên”. Vẫn là một sự nhận thức mê muội, nhảm nhí, một sự bảo thủ đến ngu dốt, nhưng khi hắn “tái mặt”, khi động đến chuyện “cấp trên”, “chính quyền” thì tính cách của Bê-li-cốp lại có một biểu hiện khác. Hắn chính là một kẻ bạc nhược, một sản phẩm dị hợm của xã hội bảo thủ. Những con người như Bê-li-cốp là những công cụ đắc lực của xã hội nông nô chuyên chế Nga hoàng, những kẻ ngu dốt lại có tài bợ đỡ, luồn cúi. Hình ảnh “cấp trên”, “chính quyền” chính là bóng ma của “quyền lực” bao phủ câu chuyện.
Cái ngã lộn nhào và cái chết của Bê-li-cốp được tác giả thuật lại bằng giọng điệu hài hước. Mọi việc diễn ra “như không”. Bê-li-cốp không quan tâm tới việc ngã có đau không, có xây xước gì không mà điều đầu tiên xem “cặp kính có còn nguyên vẹn không”. Hắn không quan tâm đến việc ngã như thế nào mà chỉ sợ ai đó đã trông thấy lúc hắn ngã thì thật là “kinh khủng”. Hắn sợ mình là trò cười nhưng nỗi “sợ” của hắn đã biến hắn thành một tên hề đáng cười nhất. Hắn run rẩy trong nỗi sợ mù quáng và cũng chết trong sự mù quáng ấy. Quả thực, tiếng cười của Va-ren-ca đã chấm dứt cuộc đời Bê-li-cốp. Va-ren-ca cười khi cái bao che phủ con người Bê-li-cốp bị rách toạc, hình ảnh người trong bao lộ mặt. Mọi sợ hãi của Bê-li-cốp đã thành sự thực. Không phải chết do cú ngã, hắn lên giường và không dậy nữa. Hắn chỉ đáp “không” hoặc “có” rồi đến im lặng vĩnh viễn.
Cái chết của Bê-li-cốp là tất yếu, chấm dứt cuộc đời của một kẻ quái thai trong xã hội. Đây cũng là điều khiến mọi người thấy “nhẹ nhàng, thoải mái”. Nhưng bi kịch chính ở chỗ hắn chết trong sự thảm hại mà vẫn “tươi tỉnh lắm”, mừng như “được chui vào trong cái bao”. Cái nhìn hiện thực sắc sảo của tác giả đã khai thác rất sâu tính bi kịch của câu chuyện. Một kẻ ngu dốt hoang tưởng, bạc nhược hèn yếu nhưng lại không nhận ra được chính mình. Một kẻ bị ru ngủ trong sự bảo thủ trì trệ.
Ở cuối truyện, lời người kể chuyện mang đầy sắc thái chiêm nghiệm : “Trên thực tế, Bê-li-cốp đã chầu âm phủ nhưng hiện còn bao nhiêu là người trong bao, trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu kẻ như thế nữa”. Hình ảnh người trong bao không chỉ có một mà là số đông, là cả một xã hội bạc nhược, nhát sợ. Cái xã hội mà bóng ma chuyên chế nông nô bao phủ lấn át. Sự xuất hiện của những con người kiểu Bê-li-cốp đã kìm hãm sự phát triển phồn thịnh của đất nước, đẩy nước Nga chìm đắm trong màn đêm đen tối lạc hậu. Lời của bác sĩ I-van có ý nghĩa thức tỉnh sâu xa. Ý thức được bản thân mình là kiểu “người trong bao” để rồi quyết tâm phá bỏ nó là cả một quá trình nhận thức tiến bộ. “Không thể sống mãi như thế được” – câu nói của I-van đã thắp sáng niềm tin tươi sáng vào sự phát triển của dân tộc. Trong ánh hoàng hôn ảm đạm của nước Nga nông nô chuyên chế, sự dũng cảm loại bỏ cái xấu xa hèn kém của chế độ Nga hoàng đã khẳng định tầm nhìn vĩ đại của Sê-khốp, khẳng định ông là một bậc thầy của cách mạng hiện thực Nga cuối thế kỉ XIX.
Hình tượng người trong bao
" Qua hình tượng nhân vật người trong bao Bê li cốp, đại thi hào Sê khốp đã lên án và phê phán mạnh mẽ và sâu sắc lối sống hèn nhát, bạc nhược , bảo thủ và ích kỷ của một bộ phận trí thức người Nga cuối thế kỉ XIX. Vấn đề là ở chổ họ chỉ biết sống chui rút trong một khuôn khổ bó hẹp và ngột ngạt mà chính họ đã tạo nên. Hiện nay, "những cái bao" đó vẫn còn hiện diện khắp nơi mà vô số người đã bị nó bó hep tiêu biểu là vào thời phong kiến những người phụ nữ phải chịu chèn ép và áp bứt vời cái bao lễ nghi phong kién thì đến hôm nay học sinh chúng ta với cái bao điểm số.Còn rất nhiều những cái bao trong thực tế mà chúng ta vướng phải. Diều quan trọng là chúng ta phải thức tỉnh và thoát khỏi những cái bao ấy chứ "Không thể sống mãi như thế được!". Chúng ta phải vứt bỏ những cái bao kia và sống thật thoải mái , thật vui vẻ, bao dung ,vị tha và ĐỪNG BAO GIỜ LẬP LẠI CON ĐƯỜNG MÀ BÊ LI CỐP ĐÃ ĐI! "
Ý nghĩa hình ảnh cái bao
    Trước hết nói về  nhân vật Bê li-cốp.
          Tác giả nhấn mạnh đến tính chất hèn nhát, sợ sệt nhỡ điều gì đó  xảy ra đến mức rút sâu vào trong bao của Bê-li-cốp. Từ đồ đạc y cho vào bao ( cái ô,  chiếc đồng hồ quả quýt, con dao nhỏ), đến con người y cũng rụt vào bao (đeo kính che mắt, mặc áo cốt bông, bẻ  đứng cổ áo lên, đi giày cao su, cầm ô, tai nhét bông, ngồi xe ngựa cho kéo mui); về nhà thì nằm trong buồng chật như cái hộp, kéo chăn trùm đầu kín mít. Ý nghĩ của y, y cũng giấu kín vào bao. Y chỉ tin những chỉ thị, thông tư, những bài báo cấm đoán điều này điều nọ mới là cái rõ ràng...Bê-li-cốp chui vào bao để tự bảo vệ, để tránh xảy ra chuyện gì. Lúc nào y cũng lo lắng “nhỡ xảy ra chuyện gì”. Đi ngủ rồi, nằm trong chăn rồi mà y còn chưa yên tâm, vẫn còn “thấy rờn rợn”. Sau đó suốt đêm Bê -li-cốp nằm mơ toàn những chuyện khủng khiếp.
          Cả cái chuyện lấy vợ, hắn cũng lần lữa, đắn đo, suy tính,  vì cứ sợ thế này thế nọ: “Không, lấy vợ là bước quan trọng, thoạt tiên cần phải cân nhắc những nhiệm vụ trước mắt, trách nhiệm...để khỏi xảy ra chuyện không may. Vấn đề này làm cho tôi không yên lòng, mấy lâu nay đêm nào tôi cũng không ngủ, và phải thú thật tôi lấy làm lo...” ( Lời Bê-li-cốp nói với Bu-rơ-kin trong đoạn lược trích). Bu-rơ-kin nhận xét “Dự định lấy vợ ảnh hưởng xấu đến hắn, hắn gầy guộc, xanh xao và hình như càng tụt sâu vào cái vỏ ốc của hắn”. Vì tính nhút nhát, hay sợ sệt mà dự định lấy vợ cứ lần lữa bị hoãn, mặc dù tất cả mọi người đều vun vào, dù Va-ren-ca cũng đã chấp thuận. Rồi vì  nghe thấy tiếng cười Ha ha ha của Va-ren-ca khi y bị ngã, y vô cùng lo sợ chuyện đến tai ngài hiệu trưởng, ngài thanh tra, sợ bị chế giễu bằng tranh châm biếm, sợ bị ép về hưu...Vì quá sợ hãi mà Bê-li-cốp tự kết liễu đời mình, vĩnh viễn chui vào chiếc quan tài như cái bao vững chắc, coi như đã đạt được mục đích cuộc đời...
          Bê-li-cốp còn là một kẻ bảo thủ và lên mặt dạy đời. Y không chịu nổi việc Cô-va-len-cô mặc áo thêu ra đường, đi ra phố tay cầm sách này sách nọ, và nhất là đi xe đạp. Y cho rằng cái việc đi xe đạp ấy “hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên”. Y lí sự thật kì quặc : “Nếu thầy giáo đi xe đạp thì học sinh sẽ làm gì? Lũ trẻ chỉ còn thiếu nước là đi đầu xuống đất mà thôi”. Thấy Va-ren-ca đi xe đạp, hắn sợ phát kinh lên, mắt hoa lên “đứng lặng như bị chôn chân”. Sau đó “Thảng thốt đến nỗi không muốn đi chơi nữa và hắn bỏ về”. Rồi hôm sau hắn bực dọc suốt ngày, cảm thấy bất an; hắn bỏ cả cơm trưa, bỏ cả công việc đến nhà Cô-va-len-cô để dạy dỗ trong cuộc đối thoại  mà chúng ta đã biết.
          Nhưng nếu Bê-li-cốp chỉ có thế, thì người ta có thể  coi thường, khinh bỉ  hoặc chế giễu hắn mà thôi. Hắn chỉ là một tên nhát gan, một giáo viên gàn dở, kì cục, đáng làm trò cười như ai đó đã vẽ tranh châm biếm “Một người tình si”, nhưng  hắn sẽ hoàn toàn vô hại. Vậy cớ gì mà “Bọn giáo viên chúng tôi đều sợ hắn. Thậm chí cả hiệu trưởng cũng sợ hắn”; “Mà đâu phải chỉ có trường học! Cả thành phố nữa ấy!”. Đây chính là một khía cạnh khác của con người Bê-li-cốp mà hình ảnh cái bao và sự hèn nhát đôi khi lấn át.  ... ên  lòng yêu TN, thương con người và  qua đó ta hiều thêm về chất thép của người tù cs Hồ Chí Minh 
IV. Tổng kết 
            1. Nội dung:
                * Bức tranh chiều tối đơn sơ, mênh mông mà đầm ấm. 
                * Tâm hồn Bác cao rộng, hòa hợp với thiên nhiên, dạt dào niềm tin vào cuộc sống và con người             ® bản lĩnh kiên cường.
            2. Nghệ thuật: Bút pháp cổ điển và hiện đại. 
Trong thời gian bị tù ở Quảng Tây (Trung Quốc) , Bác Hồ bị giải qua nhiều nhà lao. Không thể nói hết những nỗi gian khổ dọc đường giải tù , nhưng Bác ít nhắc đến nỗi khổ ải đó mà nếu có nhắc đến một vài sự việc trên đường giải tù thì Người pha giọng châm biếm , hài hước , tự trào. Bác cảm thấy có thi hứng trên đường giải tù , nhiều đề tài thơ đã được phát hiện và nhiều bài thơ hay đã được lưu lại trong “Nhật kí trong tù”. Bài thơ “mộ” (Chiều tối) là một bài thơ đặc sắc , tưởng như không phải là thơ của tù nhân Hồ Chí Minh mà là một bài thơ của thời thịnh Đường.
Trước hết , ta nhận thấy “Mộ” (Chiều tối) là bài thơ thể hiện một cách cụ thể và sinh động tư tưởng trong bài thơ tuyên ngôn của Hồ Chí Minh:
“Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại”
(Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao)
Bác đã quên đi nỗi gian khổ dọc đường , nhưng những người đọc chúng ta thì không thể quên những lần giải tù đầy gian nan khổ ải:
“Năm mươi ba cây số một ngày
Áo mũ dầm mưa rách hết giày”
Trong điều kiện thể xác bị đày đoạ , chân bị xiềng , tay bị trói , nhưng tâm hồn Bác vẫn nhẹ tênh như một người đi ngoạn cảnh. Người thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên , đồng cảm với chim muông , hoa lá. Không gian mở ra bao la trước buổi chiều tối:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Thơ Bác rất tinh tế , có lẽ vì tâm hồn Bác rất nhạy cảm. Vào buổi chiều , trên con đường heo hút , nhìn thấy những cánh chim bay về rừng , Bác cảm thấy rất xúc động , cũng như những thi sĩ cổ kim đã từng rung động trước cánh chim chiều. Câu thơ “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ” đầy tâm trạng. Nhìn cánh chim bay mà nhận ra vẻ uể oải của đôi cánh chim. Chỉ một cái nhìn ta nhận ra con người đó giàu tình cảm biết bao! Có lẽ Bác vị giải đi suốt cả ngày quá mệt mỏi cho nên dễ đồng cảm với cánh chim “quy lâm” kia. Nhưng tác giả không để lộ ra vẻ mỏi mệt của chính mình , mà chỉ thấy vẻ mỏi mệt của cánh chim:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Xa nữa là “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” (Cô vân mạn mạn độ thiên không).
Câu thơ dịch đã hay , nhưng vẫn còn mất đi những từ miêu tả vẻ lẻ loi, trôi nổi , lờ lững của áng mây trong từ láy “mạn mạn”. Áng mây cô đơn (cô vân) và mệt mỏi tưởng như không bay được nữa. Thiên nhiên hoang vắng và ảm đạm có phần phù hợp với cảnh ngộ của người đang trên đường bị áp giải.
Nhưng qua hai câu thơ trên ta vẫn thấy được một nét nổi bật trong tâm hồn của Bác là trong những giờ phút đau khổ , nặng nề , cực nhọc nhất của cuộc đời , Bác vẫn tha thiết với thiên nhiên và tìm thấy ở thiên nhiên sự đồng cảm.
Bài thơ chuyển một cách đột ngột , từ quang cảnh buổi chiều tối buồn bã sang những hình ảnh sinh động , đầy sức sống:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn , lô dĩ hồng.”
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết , lò than đã rực hồng.)
Hình ảnh thiếu nữ xuất hiện làm xôn xao cả buổi chiều cô quạnh. Lại có sự vận động “ma bao túc” (xay ngô tối) làm cho không khí buổi chiều đượm một chút náo nhiệt. Cảnh chiều tối bỗng dưng có sinh khí. Chứng tỏ Bác tuy khổ sở về cảnh tù ngục , nhưng không lúc nào là không lưu tâm đến những người lao động và những hoạt động thiết thực của họ. Nhưng nếu bài thơ chỉ dừng lại ở đây thì thơ Bác không thể vượt lên trên những kiệt tác của thơ Đường được. Bác tiếp thu tinh hoa của thơ Đường nhưng cũng đổi mới thơ Đường. Người không kết thúc bài thơ một cách lạnh lẽo. Người đã đem vào hình thức chật hẹp của thơ Đường tâm hồn một người chiến sĩ Cộng sản lỗi lạc. Câu kết của bài thơ đã rực lên màu sắc thiết tha , tin yêu vào cuộc sống của Người.
“Bao túc ma hoàn , lô dĩ hồng.”
(Xay hết , lò than đã rực hồng.)
Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã bàn luận về tứ thơ này như sau:
“Hồ Chí Minh rất Đường mà lại không Đường tí nào. Với một chữ “hồng” , Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ , đã làm mất đi sự mỏi mệt, sự uể oải , sự vội vã , sự nặng nề đã diễn tả trong ba câu đầu , đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay ngô tối. Chữ “hồng” trong nghệ thuật thơ Đường người ta gọi là “con mắt” của thơ (thi nhãn hoặc nhãn tự) , nó sáng bừng lên , nó cân lại , chỉ một chữ thôi với hai mươi bảy chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa.
Với chữ “hồng” đó có ai còn cảm giác nặng nề , mệt mỏi , nhọc nhằn nữa đâu mà chỉ thây màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm , cả thân hình , cả lao động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ của tình cảm Bác”.
Không thể tưởng tượng được bài thơ “Mộ” (Chiều tối) là một bài thơ trong tập “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh. Không hề có bóng dáng của nhà tù. Không thấy hình ảnh của tù nhân mà cứ tưởng rằng đây là thơ của thi sĩ tự do. Mà đúng , đây là thơ của tinh thần tự do , “Tinh thần tại ngục ngoại”. Với cách cấu tứ theo kiểu thơ Đường , tác giả đã thoả mãn được nhu cầu thẩm mĩ của người đọc và bộc lộ được tư tưởng , tình cảm một cách kín đáo. Cả bài thơ màu sắc cứ bàng bạc để rồi kết bài thơ bằng một chữ “hồng” tươi sáng , ấm áp , tin yêu. Đó là tấm lòng , là niềm tin của Bác. Đọc thơ Bác, chúng ta cũng cảm thấy nhuốm cái màu hồng của buổi chiều tối Bác tả trong thơ.
Những điểm cần phân tích ở bài Chiều tối (Mộ)
a. Dù lâm vào cảnh bị đọa đày, Bác vẫn thể hiện tình cảm yêu mến thiết tha và thái độ đồng cảm, chia sẻ với tạo vật, thiên nhiên vùng sơn cước lúc chiều buông. Cánh chim mỏi mệt (quyện điểu) và chòm mây lẻ loi (cô vân) vừa là đối tượng của niềm thương cảm vừa chính là biểu hiện bên ngoài của nỗi buồn trong lòng người tù trên con đường đày ải, xa đất nước quê hương.
b. Sự chuyển cảnh ở nửa sau bài thơ cho thấy lòng yêu con người, yêu cuộc sống đặc biệt sâu sắc của Bác. Bác đã nói về hình ảnh cô gái xóm núi xay ngô với biết bao cảm xúc trìu mến. Bác hiểu nỗi nhọc nhằn vất vả của người lao động (cụm từ ma bao túc được lặp lại theo trật tự đảo ngược ở câu 3 và 4 góp phần biểu đạt ý này) nhưng đồng thời cũng nhìn thấy nét đẹp riêng, chất thơ riêng ở những cảnh đời bình dị (điều ít gặp trong thơ cổ điển).
c. Ánh hồng của lò than được nhắc tới ở cuối bài (qua chữ hồng - nhãn tự trong tác phẩm) cho thấy tâm trạng Bác đang chuyển biến từ buồn sang vui. Quan trọng hơn, nó giúp ta hiểu được niềm lạc quan đáng quý của nhà cách mạng.
Rõ ràng trong hoàn cảnh nào Bác cũng hướng tới phần tươi sáng của cuộc đời.
Khái quát về những nét đẹp trong tâm hồn tác giả Hồ Chí Minh được thể hiện qua hai bài thơ
a. Bác rất yêu thiên nhiên, luôn dạt dào cảm xúc thi ca trước mọi sắc thái đa dạng của nó (từ cảnh hiu hắt, tiêu sơ đến cảnh hoành tráng, lộng lẫy).
b. Bác yêu con người, gắn bó trước hết với cuộc sống con người (nhất là cuộc sống người lao động); thường biểu lộ tình cảm một cách tự nhiên, bình dị; hoà đồng với chung quanh.
c. Bác có tinh thần thép, ý thức rõ về đường đi của mình, kiên nghị trước thử thách, tự chủ trong mọi hoàn cảnh. Bác luôn lạc quan, tràn đầy lòng tin vào cuộc sống, tương lai, vào xu thế vận động tích cực của sự vật.
XUÂN DIỆU
Ông tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nhưng sinh tại Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha là ông Ngô Xuân Thọ và mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp.
Xuân Diệu lớn lên ở Qui Nhơn. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho (nay là Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn (1938–1940). Ông tốt nghiệp cử nhân Luật 1943 và làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho một thời gian trước khi chuyển về ở Hà Nội.
Bên cạnh sáng tác thơ, ông còn tham gia viết báo cho các tờ Ngày Nay và Tiên Phong. Ông là một trong những người sáng lập Đoàn báo chí Việt Nam, nay là Hội Nhà báo Việt Nam[1].
Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn của mình, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới", "ông hoàng của thơ tình".
Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn và cũng đã là một trong những chủ soái của phong trào "Thơ Mới". Tác phẩm tiêu biểu của ông ở giai đoạn này: Thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), truyện ngắn Phấn thông vàng (1939), Trường ca (1945).
Hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió được giới văn học xem như là hai kiệt tác của ông ca ngợi tình yêu và qua các chủ đề của tình yêu là ca ngợi sự sống, niềm vui và đam mê sống. Và ca ngợi tình yêu thì làm sao mà không ca ngợi tuổi trẻ, mùa xuân, ca ngợi thiên nhiên là tổ ấm và cái nôi của tình yêu. Và Xuân Diệu cảm nhận sâu sắc đến đau đớn nỗi thời gian trôi chảy, sự mong manh của đời người cũng như lòng khát khao vĩnh cửu, tất cả đã được diễn tả bằng những câu thơ xúc động, có khi đậm đà triết lý nhân sinh. (Huy Cận, tháng 4 năm 2000)
Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiền phong của Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ ở Việt Bắc.
Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.
Từ đó, Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng, một "dòng thơ công dân". Bút pháp của ông chuyển biến phong phú về giọng vẻ: có giọng trầm hùng, tráng ca, có giọng chính luận, giọng thơ tự sự trữ tình. Tiêu biểu là: Ngọn quốc kỳ (1945), Một khối hồng (1964), Thanh ca (1982), Tuyển tập Xuân Diệu (1983).
Là cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam, Xuân Diệu đã để lại khoảng 450 bài thơ (một số lớn nằm trong di cảo chưa công bố), một số truyện ngắn, và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học.
Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông còn được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Đức năm 1983.
Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996).
Tên của ông được đặt cho một đường phố ở Hà Nội.
Đời sống riêng
Xuân Diệu đã lập gia đình riêng một lần với NSND Bạch Diệp nhưng hai người đã ly dị và họ không có con chung[2]. Sau khi ly dị ông sống độc thân cho đến lúc mất vào năm 1985. Xuân Diệu là người cùng quê Hà Tĩnh với Huy Cận (làng Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh) nên khi gặp nhau, hai ông đã trở thành đôi bạn thân. Vợ của Huy Cận, bà Ngô Xuân Như là em gái của Xuân Diệu. Có người cho rằng Xuân Diệu cùng với Huy Cận là hai nhà thơ đồng tính luyến ái[3]. Huy Cận và Xuân Diệu từng sống với nhau nhiều năm. Những bài thơ "Tình trai", "Em đi" của Xuân Diệu và "Ngủ chung" của Huy Cận được cho là viết về đề tài đó. Theo hồi ký Cát bụi chân ai của Tô Hoài thì Xuân Diệu từng bị kiểm điểm về việc này[4].
Câu nói nổi tiếng
Trong tập Chân dung và đối thoại, Trần Đăng Khoa ghi lại câu nói của Xuân Diệu:
"Nhà văn tồn tại ở tác phẩm. Không có tác phẩm thì nhà văn ấy coi như đã chết." 

Tài liệu đính kèm:

  • docMột số bài phân tích mẫu môn ngữ văn.doc