Giáo án Ngữ văn 12 chi tiết: Đất nước ( Trích trường ca Mặt đường khát vọng ) Nguyễn Khoa Điềm

Giáo án Ngữ văn 12 chi tiết: Đất nước ( Trích trường ca Mặt đường khát vọng ) Nguyễn Khoa Điềm

Đất nước

( Trích trường ca Mặt đường khát vọng )

 Nguyễn Khoa Điềm

A. Mục tiêu bài học:

- Thấy được cách nhìn mới mẻ về đất nước: đất nước là sự kết tinh và hội tụ trên nhiều bình diện, gắn bó với cuộc sống của nhân dân bởi chính nhân dân là người làm ra đất nước.

- Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật: giọng thơ trữ tình - chính luận, vận dụng một cách sáng tạo nhiều yếu tố của văn hóa và văn học dân gian để nói lên tư tưởng Đất nước của nhân dân.

- Thêm yêu đất nước và những người dân đã làm nên đất nước này.

 

doc 9 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1456Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ văn 12 chi tiết: Đất nước ( Trích trường ca Mặt đường khát vọng ) Nguyễn Khoa Điềm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đất nước
( Trích trường ca Mặt đường khát vọng )
 Nguyễn Khoa Điềm
A. Mục tiêu bài học:
- Thấy được cách nhìn mới mẻ về đất nước: đất nước là sự kết tinh và hội tụ trên nhiều bình diện, gắn bó với cuộc sống của nhân dân bởi chính nhân dân là người làm ra đất nước.
- Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật: giọng thơ trữ tình - chính luận, vận dụng một cách sáng tạo nhiều yếu tố của văn hóa và văn học dân gian để nói lên tư tưởng Đất nước của nhân dân.
- Thêm yêu đất nước và những người dân đã làm nên đất nước này.
B. Nội dung bài học:
I. Tiểu dẫn:
1. Tác giả:
- Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 - 4 - 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế ( quê gốc làng An Cựu, xã Thủy An, thành phố Huế ) trong một gia đình trí thức cách mạng; thân sinh nhà thơ là Hải Triều, nhà lí luận văn nghệ mác - xít.
- Năm 1955, Nguyễn Khoa Điềm ra miền Bắc học tại trường học sinh miền Nam. Sau khi tốt nghiệp Khoa Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, ông về miền Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên Huế; xây dựng cơ sở cách mạng, viết báo, làm thơ,... cho đến năm 1975.
- Ông đã tham gia Ban chấp hành Hội nhà văn khóa V, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin. Hiện nay là ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương.
- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ chống Mĩ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân, dễ đi vào lòng người đọc.
2. Sự nghiệp sáng tác:
- Thơ ông là sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng về đất nước, con người Việt Nam. 
- Những tác phẩm chính: Cửa thép ( thơ, 1972 ), Đất ngoại ô ( thơ, 1973 ), Mặt đường khát vọng ( trường ca, 1974 ), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm ( thơ, 1986 ), Thơ Nguyễn Khoa Điềm ( 1990 ).
- Nguyễn Khoa Điềm đã được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ Ngôi nhà có ngọn lửa ấm. Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật ( năm 2000 ).
3. Đoạn trích:
- Xuất xứ:
 Bài Đất nước trích phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng. 
- Hoàn cảnh:
 Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.
- Mục đích:
 Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiến miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
II. Bố cục đoạn trích:
 Chia làm 2 phần:
- Phần 1 ( từ đầu đến Làm nên Đất nước muôn đời ): những cảm nhận, phát hiện mới mẻ, sâu sắc về đất nước trên nhiều bình diện của tác giả mang đậm tư tưởng của nhân dân.
- Phần 2 ( còn lại ): nói lên tư tưởng cơ bản chính là tư tưởng Đất nước của Nhân dân - là điểm hội tụ mọi cách nhìn của đất nước.
III. Đọc hiểu văn bản:
1. Những cảm nhận, phát hiện của tác giả về đất nước mang đậm tư tưởng của nhân dân:
a. Đất nước bắt nguồn từ những gì giản dị, gần gũi, thiêng liêng nhất của con người:
- Phần đầu đoạn trích, tác giả nói về lịch sử đất nước - một đất nước hình thành từ những ngày xửa ngày xưa qua bốn nghìn năm. Tác giả không kể lại những sự kiện lịch sử oai hùng, những chiến công oanh liệt, những anh hùng lừng danh mà Nguyễn Khoa Điềm đã triển khai cảm hứng Đất nước bằng những cái bình dị, gần gũi và thân thương với mọi gia đình Việt Nam. Có tiếng nói của mẹ, miếng trầu của bà, có thuần phong mĩ tục, có tình nghĩa thủy chung của cha mẹ, có hạt gạo ta ăn hàng ngày, có cái kèo cái cột trong nhà, có mồ hôi làm ra bông lúa hạt gạo, có ngôn ngữ nhân dân, lời ăn tiếng nói do nhân dân sáng tạo ra đặt tên cho những vật quanh mình:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái " ngày xửa ngày xưa ... " mẹ thường hay kể. 
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất nước có từ ngày đó...
ố Tất cả những điều đó làm cho đất nước trở thành cái gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống hằng ngày của con người.
- Tiếp theo, đó là sự cảm nhận đất nước từ các phương diện địa lí - lịch sử: 
+ Tác giả khai thác các thành tố của đất nước. Việc tìm về từ gốc của từ đất nước là để khai thác cách quan niệm có nét riêng biệt của dân tộc ta về khái niệm này. ở nhiều ngôn ngữ khác, đất nước thường được cấu tạo từ những từ gốc là nơi sinh, quê hương,... nhưng trong Tiếng Việt, đất nước gồm hai yếu tố hợp thành: Đất và Nước. Cách truy tìm từ gốc, cách chiết tự có thể dẫn đến nguy cơ hiểu sai lạc ý nghĩa, hoặc máy móc giản đơn khi giải thích các khái niệm khoa học. Nhưng ở đây, tư duy nghệ thuật cho phép cách phân tích và cảm nhận có vẻ như không thật khoa học này.
+ Đất nước được cảm nhận theo các phương diện không gian và thời gian, địa lí và lịch sử:
 Thời gian đằng đẵng
 Không gian mênh mông
Từ huyền thoại Lạc Long Quân và âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ đã nói lên chiều sâu lịch sử của đất nước Việt Nam:
 Lạc Long Quân và âu Cơ
 Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
 ...
 Hằng năm ăn đâu làm đâu
 Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
+ Về mặt không gian địa lí, đất nước không chỉ là núi sông, rừng bể ( Con chim phượng hoàng ... Con cá ngư ông ... ):
 Đất là nơi " con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc "
 Nước là nơi " con cá ngư ông móng nước biển khô "
mà còn là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống mỗi người:
 Đất là nơi anh đến trường
 Nước là nơi em tắm
với tình yêu của đôi lứa:
 Đất nước là nơi ta hò hẹn
 Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
và cũng là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ:
 Những ai đã khuất
 Những ai bây giờ
 Yêu nhau mà sinh con đẻ cái
 Gánh vác phần người đi trước để lại
 Dặn dò con cháu chuyện mai sau
ố Tác giả đã sử dụng sáng tạo các yếu tố của ca dao, truyền thuyết dân gian. Có lúc lại lấy từng phần của câu ca dao, nhưng phần nhiều là sử dụng dụng ý, hình ảnh tạo nên hình tượng thơ mới, vừa gần gũi, vừa mới mẻ:
 Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
 ...
 Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
- ở trên chiều rộng của không gian địa lí và chiều dài của thời gian lịch sử, đất nước được cảm nhận như sự thống nhất của các phương diện văn hóa, truyền thống, phong tục, cái hằng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống mỗi cá nhân và cả cộng đồng...
 Đến đây, ý thơ dẫn đến điểm tập trung những suy nghĩ, cảm xúc về đất nước, cũng là điểm mấu chốt của tư tưởng trong phần một của bài thơ:
 Trong anh và em hôm nay
 Đều có một phần đất nước
 Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi con người. Sự sống mỗi cá nhân không phải chỉ là riêng của cá nhân mà còn là của đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân dân; mỗi cá nhân phải có trách nhiệm giữ gìn, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo.
- Đoạn thơ kết thúc bằng một lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ về trách nhiệm với đất nước, tuy là đoạn thơ chính luận nhưng người đọc không cảm thấy là những lời giáo huấn mà chỉ như một lời tự nhủ, tự dặn mình, chân thành, tha thiết:
 Em ơi em Đất nước là máu xương của mình
 Phải biết gắn bó và san sẻ
 Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
 Làm nên Đất nước muôn đời...
2. Tư tưởng Đất nước của nhân dân :
 Tư tưởng cơ bản của phần này là tư tưởng Đất nước của nhân dân. Đây là điểm quy tụ mọi cách nhìn về đất nước trong phần này, cũng là đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu sắc thêm ý niệm về đất nước của thơ chống Mĩ cứu nước.
- Cách nhìn của tác giả về những thắng cảnh, về địa lí là một cách nhìn có chiều sâu và là một phát hiện mới mẻ:
 Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
 Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái 
 Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
 Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương
 Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
 Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
 Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
 Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm 
 Những cảnh quan thiên nhiên kì thú ( đá Vọng Phu, núi Con Cóc, núi Con Gà hay hòn Trống Mái,... ) gắn liền với đời sống dân tộc, gắn liền với một miền quê trên đất nước Việt Nam, nó chỉ trở thành thắng cảnh khi đã gắn liền với con người, được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn và qua lịch sử của dân tộc. Nếu không có những người vợ mòn mỏi nhớ chồng qua các cuộc chiến tranh và li tán thì cũng không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu, cũng như nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì cũng không thể có sự cảm nhận như vậy về vẻ đẹp hùng vĩ của núi đồi xung quanh đền vua Hùng...
 Đoạn thơ bằng cách quy nạp hàng loạt hiện tượng để đưa đến một khái quát sâu sắc:
 Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
 Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
 Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
 Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
- Khi nghĩ về bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị:
 Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
 Họ đã sống và chết
 Giản dị và bình tâm
 Không ai nhớ mặt đặt tên
 Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
 Tiếp đó, đoạn thơ khai triển thêm ý này: Những con người vô danh và bình dị ấy đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng:
 Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
 Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
 Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
 Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
 Họ đắp đập, be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Họ cũng là những người khi:
 Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
 Có nội thù thì vùng lên đánh bại
- Mạch suy nghĩ của đoạn thơ dẫn đến tư tưởng cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là cao điểm của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn:
 Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
 Cũng từ điểm này, chúng ta hiểu thêm những ý thơ ở trên. Và khi nói đến Đất nước của nhân dân, một cách tự nhiên, tác giả trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó - trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích:
 Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Câu thơ hai vế song song, đồng đẳng là một cách định nghĩa về đất nước... thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Trong cả kho tàng ca dao, dân ca, ở đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc: 
+ Thật say đắm trong tình yêu 
 Dạy anh biết " yêu em từ thuở trong nôi "
+ Quý trọng tình nghĩa
 Biêt quý công cầm vàng những ngày lặn lội 
+ Nhưng cũng thật quyết liệt trong căm thù và chiến đấu:
 Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
 Đi trả thù mà không sợ dài lâu
 Chúng ta lại gặp cách vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý và hình ảnh của câu ca dao, vẫn gợi nhớ đến câu ca dao nhưng lại trở thành một câu, một ý thơ gắn bó trong mạch thơ của bài.
- Bốn câu kết thúc đoạn trích gợi lên vẻ đẹp thơ mộng sông núi đất nước. Vẻ đẹp đó lại được kết đọng trong những câu dân ca nhất là dân ca trên sông nước:
 Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
 Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
 Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
 Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...
3. Nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm:
- Tác giả đã sử dụng nhuần nhị và sáng tạo nhiều chất liệu văn học và văn hóa dân gian vào câu thơ hiện đại của mình tạo nên màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ cho đoạn thơ.
- Bài thơ đã có sự kết hợp giữa cảm xúc và triết lí trong một đoạn thơ trữ tình chính luận khá thành công, thể hiện được chỗ mạnh của thơ Nguyễn Khoa Điềm: kết hợp cảm xúc và suy nghĩ, chính luận và trữ tình. Tuy vậy, đôi chỗ yêu tố chính luận còn nặng nề, lấn át cảm xúc, ảnh hưởng đến sự cảm thụ thơ vốn là một thể loại trữ tình.
- Cách diễn đạt hiện đại đã gây ấn tượng gần gũi, vừa mới mẻ cho người đọc đó là hình thức câu thơ tự do.
IV. Ghi nhớ: SGK trang 229
- Nội dung:
 Đoạn thơ là sự cảm nhận, phát hiện về đất nước mang đậm tư tưởng nhân dân trong một cái nhìn tổng hợp các yếu tố về tư tưởng văn hóa, văn học dân gian, phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc chiều dài lịch sử và chiều rộng của không gian địa lí.
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng rộng rãi và sáng tạo các chất liệu của văn hóa dân gian từ ca dao, dân ca, truyền thuyết, truyện cổ tích, đến phong tục và sinh hoạt hằng ngày.
+ Cách diễn đạt hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi và mới mẻ cho người đọc đó là thể thơ tự do.
V. Luyện tập:
 Bài tập 1 ( câu đọc hiểu 1 ): Vì sao không dùng hình ảnh một đất nước hiện đại của những ngày hôm nay ? Dùng hình ảnh một đất nước dân gian có lợi thế gì trong việc tiếp nhận tư tưởng đó và nó đã đem lại hiệu quả nghệ thuật như thế nào ?
- Viết đoạn thơ này trong trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm muốn đem đến cho người đọc một cảm nhận về đất nước trong chiều sâu tư tưởng: Đất Nước của nhân dân. Và ông đã tìm ra một cách nói thơ riêng:
 Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
 Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
Như vậy, là ông đã dùng một đất nước dân gian để nói lên tư tưởng lớn đó về đất nước.
- Tác giả dùng một đất nước dân gian chứ không dùng một đất nước hiện đại ngày hôm nay vì dân gian chính là dân tộc, lại là cái phần tiêu biểu, đậm đà nhất, dễ cảm thấy và cũng dễ nhận ra nhất của dân tộc, cũng là của đất nước mình. Hình ảnh một đất nước dân gian thơ mộng, trữ tình từ xa xưa vọng về sẽ trở nên quen thuộc, gần gũi với mọi người nên dễ cảm, dễ hiểu, dễ nhận ra cái tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.
 Bài tập 2 ( câu đọc hiểu 2 ):
 - Tác giả đã cảm nhận đất nước trên những bình diện nào ? Cách cảm nhận có 
 gì đặc sắc ?
 - Vì sao đất nước hiện lên vừa thiêng liêng, lớn lao, lại vừa gần gũi, thân thiết ?
 - Tìm những phát hiện mới mẻ của tác giả về đất nước ?
- Tác giả đã cảm nhận về đất nước trong chiều sâu văn hóa - lịch sử và trong cuộc sống đời thường của mỗi con người. Vì vậy, mà đất nước hiện lên vừa thiêng liêng, tôn kính, lại vừa gần gũi, thân thiết:
+ Đất nước có trong những chuyện đời xưa, từ những phong tục văn hóa xa xưa ( trầu cau ) đến truyền thống đánh giặc, giữ nước ( Thánh Gióng ); đất nước có nguồn gốc đẹp đẽ, thiêng liêng, tôn kính:
 Đất là nơi Chim về
 Nước là nơi Rồng ở
 Lạc Long Quân và âu Cơ
 Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
+ Nhưng đất nước cũng là cuộc sống đời thường của người dân, từ cuộc sống đời thường ấy mà có đất nước: 
 Cái kèo, cái cột thành tên
 Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
 Đất nước có từ ngày đó...
+ Và không chỉ từ đời sống vật chất làm lụng lo toan hàng ngày, mà đất nước còn bắt nguồn từ đời sống tình cảm của con người, ngay cả tình yêu lứa đôi cũng góp phần làm nên đất nước:
 Đất là nơi anh đến trường
 Nước là nơi em tắm
 Đất nước là nơi ta hò hẹn
 Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
- Tác giả đã cảm nhận đất nước trên nhiều bình diện và có nhiều phát hiện mới mẻ về đất nước như cuộc sống đời thường của người dân cũng làm nên đất nước, đến cả tình yêu lứa đôi cũng là một yếu tố làm nên gương mặt tinh thần của đất nước.
- ở chiều rộng của không gian địa lí và chiều dài của thời gian lịch sử, đất nước được cảm nhận như sự thống nhất của các phương diện văn hóa, truyền thống, phong tục, cái hằng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống mỗi cá nhân và cả cộng đồng,...
- Chính vì thế mà tác giả có thể khái quát thành một ý thơ như một phát hiện sâu sắc về đất nước, khi đất nước đã kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi con người:
 Trong anh và em hôm nay
 Đều có một phần Đất Nước
Câu thơ mới đọc ngỡ như lạ, nhưng ngẫm nghĩ kĩ thì hoàn toàn đúng và có ý vị triết lí thật sâu sắc. Đó chính là mối quan hệ biện chứng giữa cá thể và cộng đồng, giữa mỗi thành viên với đất nước mình. Từ đó mà mỗi người dân đều gắn bó và có trách nhiệm với đất nước.
- Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã quy tụ mọi cách nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu sắc và mới mẻ của tác giả về địa lí, lịch sử và văn hóa của đất nước, trong đó cách nhìn nhận về địa lí là mới lạ và độc đáo nhất. Dưới góc nhìn Đất Nước của nhân dân, Nhân dân làm ra Đất Nước, tác giả thấy những danh lam thắng cảnh khi đã gắn liền với con người, được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn và lịch sử của dân tộc. Từ đó mà khái quát thành một tư duy thơ độc đáo, mang ý vị triết lí sâu sắc:
 Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
 Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
- Các bình diện nói trên, đã quy tụ để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của nhân dân, lại được tác giả nhấn mạnh và khắc sâu thêm bằng những đoạn thơ chính luận, mà tiêu biểu là sáu câu thơ khẳng định mạnh mẽ chân lí đó:
 Có biết bao người con gái, con trai
 Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
 Họ đã sống và chết
 Giản dị và bình tâm
 Không ai nhớ mặt đặt tên
 Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
 Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân được khắc sâu, nhấn mạnh trong đoạn thơ này, cũng như ở nhiều bài thơ thời chống Mĩ, chính là vì trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, vai trò của nhân dân đã nổi bật và tỏa sáng hơn bao giờ hết, nhân dân đã chiếm lĩnh vũ đài lịch sử và có tác dụng quyết định đến vận mệnh của Tổ quốc. Trong cuộc đời, trong lịch sử đã như thế thì trong văn học, trong thơ ca cũng vậy.
 Bài tập 3 ( câu đọc hiểu 3 ):
- Tác giả nói như vậy vì đó là một sự thực mà mỗi người Việt Nam ai cũng đều cảm thấy. Đất nước đã hóa thân vào mỗi người bởi chúng ta đều là con Rồng, cháu Tiên, đều sinh ra và lớn lên trên đất nước, đều hấp thụ những tinh hoa, phẩm chất của đất nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp cảm nghĩ, cách sống,... của mình. Cho đến cả những người xa Tổ quốc vẫn giữ được cái phần Đất Nước ấy trong con người mình, vẫn mong tìm về với cội nguồn, quê hương, đất nước.
- Đất nước vào trong ta một cách tự nhiên bằng nhiều con đường, trong đó có con đường văn học. Và đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã giúp ta hiểu sâu thêm nhiều vẻ đẹp mới mẻ của đất nước để làm phong phú thêm cái phần Đất Nước vốn có của mình.
 Bài tập 4 ( câu luyện tập 2 ):
- Giống nhau: 
 Cả hai bài ( đoạn ) thơ đều dựng lên hình ảnh đất nước giàu đẹp, nhân dân anh hùng - tình nghĩa, thấm nhuần tư tưởng Đất Nước của nhân dân, đều thể hiện lòng yêu quý và tự hào về đất nước.
- Khác nhau:
+ Bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi thì dựng lên một đất nước mang màu sắc hiện đại đã trưởng thành và tỏa sáng giữa thế kỉ XX.
+ Bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lại đưa ta về với một đất nước dân gian thơ mộng trữ tình như từ xa xưa vọng về.
+ Cách cảm nhận:
• Tuy cũng có những ý nghĩ về truyền thống của dân tộc trong quá khứ, nhưng chủ yếu Nguyễn Đình Thi cảm nhận về đất nước bằng những cái hôm nay, bằng cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi của một dân tộc anh hùng - tình nghĩa.
• Còn Nguyễn Khoa Điềm thì lại cảm nhận về đất nước trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hóa dân gian và cả cuộc sống đời thường của nhân dân.
ố Hai bài ( đoạn ) thơ đem đến cho ta những vẻ đẹp vừa giống nhau lại vừa có sắc thái riêng về đất nước đã góp phần hoàn thiện gương mặt đất nước trong thơ. Đó là những tiếng nói thơ hay về đất nước trong thơ ca hiện đại.
--------------------Hết--------------------

Tài liệu đính kèm:

  • docDat Nuoc NGuyen Khoa Diem(1).doc