1. Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ: "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi". Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Khổ thơ này là một bằng chứng "thi trung hữu hoạ". Thủ pháp đối lập ở đây được sử dụng triệt để và có hiệu quả. Các từ lấp láy "khúc khuỷu", "thăm thẳm" góp phần làm tượng hình lên hình ảnh Tây Bắc gập ghềnh hiểm trở. Ở câu thứ hai, từ ngữ được sử dụng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn "heo hút". Người lính như đi trên mây. Để tả chiều cao thăm thẳm của núi, Quang Dũng đã hạ ba chữ "súng ngửi trời" nghe vừa ngộ nghĩnh, vừa tinh nghịch. Câu ba diễn tả hai bên dốc núi nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Sau ba câu thơ gân guốc, táo bạo là một câu thơ toàn thanh bằng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Phân tích TÂY TIẾN của QUANG DŨNG 1. Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ: "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"... Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Khổ thơ này là một bằng chứng "thi trung hữu hoạ". Thủ pháp đối lập ở đây được sử dụng triệt để và có hiệu quả. Các từ lấp láy "khúc khuỷu", "thăm thẳm" góp phần làm tượng hình lên hình ảnh Tây Bắc gập ghềnh hiểm trở. Ở câu thứ hai, từ ngữ được sử dụng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn "heo hút". Người lính như đi trên mây. Để tả chiều cao thăm thẳm của núi, Quang Dũng đã hạ ba chữ "súng ngửi trời" nghe vừa ngộ nghĩnh, vừa tinh nghịch. Câu ba diễn tả hai bên dốc núi nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Sau ba câu thơ gân guốc, táo bạo là một câu thơ toàn thanh bằng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Quy luật này cũng giống với cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh như xoa mát cả khổ thơ. Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy nguy hiểm của núi rừng Tây Bắc được nhà thơ tiếp tục khai thác. Trong cái không gian mênh mông của rừng thiêng hoang vu ấy, cái chết luôn luôn rình rập con người: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Đoạn thơ được kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ ấm áp, dịu ngọt mở ra một cảnh tượng thơ mộng thấm đẫm tình người, gắn liền với những kỉ niệm của Tây Tiến trên những chặng đường hành quân: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi 2. Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của Tây Bắc: Một Tây Bắc tươi mát, mĩ lệ, tài hoa, duyên dáng. Những nét vẽ bạo, khoẻ, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, tinh tế. Hình ảnh một đêm liên hoan văn nghệ của bộ đội được gợi lên với những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ... Hơn ở đâu hết, đoạn thơ này bộc lộ nét tài hoa của Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn của ông bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ: xiêm áo lộng lẫy, dáng điệu "e ấp" của cô gái Tây Bắc, tiếng khèn, điệu múa độc đáo mang đậm bản sắc địa phương. Hai tiếng "kìa em" thể hiện một cái nhìn ngỡ ngàng, kinh ngạc trìu mến. Cũng ở đoạn thơ này, con người và cảnh vật Tây Bắc hiện lên tươi đẹp và thơ mộng. Ngòi bút tài hoa, tinh tế của nhà thơ đã vẽ lên hình ảnh con người mờ ảo trong chiều sương Châu Mộc, gợi lên cái hồn của rừng lau, cái dáng mềm mại của cô gái trên chiếc thuyền, cái đong đưa của những bông hoa trôi theo dòng nước lũ. 3. Trên nền hùng vĩ và diễm lệ của núi rừng Tây Bắc, hình ảnh người lính Tây Tiến xuất hiện mang vẻ đạp vừa bi tráng vừa thơ mộng. Nhà thơ không che giấu những gian khổ, hi sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều, những khó khăn, gian khổ, những mất mát, hi sinh ấy được thể hiện bằng một bút pháp lãng mạn. Qua cách nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở thành cái hùng, đem đến cho hình ảnh người lính một vẻ đẹp hào hùng tráng lệ. Cái sự thực tàn khốc đoàn quân Tây Tiến tóc trụi, da xanh ngắt như tàu lá vì sốt rét, qua con mắt của nhà thơ vẫn toát lên cái vẻ "dữ oai hùm". Cái vẻ hào hùng, sang trọng của người lính toát lên từ thái độ dứt áo ra đi: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh", từ tư thế: "Mắt trừng gởi mộng qua biên giới", từ những giấc mơ biết bao thơ mộng: "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Tác giả đã dành những câu thơ trang trọng để nói về sự hi sinh mất mát của người lính Tây Tiến. Những người lính ngã gục bên đường, sự thật là không có đến một manh chiếu bọc thân, qua cách nhìn của nhà thơ lại được khâm liệm bằng những tấm áo bào sang trọng: "Áo bào thay chiếu anh về đất". Những nấm mồ người lính rải rác nơi rừng hoa biên giới xa xôi bỗng trở thành những nấm mồ tôn nghiêm nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" v.v... Đoạn thơ kết thúc bằng tiến gầm dữ dội của dòng sông Mã như khúc nhạc hào hùng đưa tiễn linh hồn người chiến sĩ: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Tài liệu đính kèm: