Giáo án môn Ngữ văn 12 - Phân tích bài văn chiếc thuyền ngoài xa

Giáo án môn Ngữ văn 12 - Phân tích bài văn chiếc thuyền ngoài xa

1. Về nội dung

Sau năm 1975, đất nước thoát khỏi chiến tranh, bước vào giai đoạn xây dựng, phát triển trong quỹ đạo hoà bình, mở ra cho văn học những tiền đề mới. Vốn giàu tâm huyết với văn chương, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với sự kì vọng của nhân dân, Nguyễn Minh Châu sớm ý thức được yêu cầu phải đổi mới tư duy văn học. Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh (1982), ngòi bút của ông dành sự quan tâm đặc biệt cho các vấn đề thế sự. Từ cảm hứng sử thi - lãng mạn từng làm nên vẻ đẹp rực rỡ của các tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng, Cửa sông, Dấu chân người lính, ông chuyển dần sang cảm hứng triết luận về những giá trị nhân bản đời thường. Tâm điểm những khám phá nghệ thuật của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985) đã đưa tên tuổi Nguyễn Minh Châu lên vị trí "người mở đường tinh anh và tài năng"([6]) của văn học nước ta thời kì đổi mới.

 

doc 28 trang Người đăng hien301 Lượt xem 2007Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn 12 - Phân tích bài văn chiếc thuyền ngoài xa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân tích bài văn chiếc thuyền ngoài xa
Về nội dung
Sau năm 1975, đất nước thoát khỏi chiến tranh, bước vào giai đoạn xây dựng, phát triển trong quỹ đạo hoà bình, mở ra cho văn học những tiền đề mới. Vốn giàu tâm huyết với văn chương, luôn trăn trở về một nền văn học xứng đáng với sự kì vọng của nhân dân, Nguyễn Minh Châu sớm ý thức được yêu cầu phải đổi mới tư duy văn học. Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh (1982), ngòi bút của ông dành sự quan tâm đặc biệt cho các vấn đề thế sự. Từ cảm hứng sử thi - lãng mạn từng làm nên vẻ đẹp rực rỡ của các tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng, Cửa sông, Dấu chân người lính, ông chuyển dần sang cảm hứng triết luận về những giá trị nhân bản đời thường. Tâm điểm những khám phá nghệ thuật của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985) đã đưa tên tuổi Nguyễn Minh Châu lên vị trí "người mở đường tinh anh và tài năng"([6]) của văn học nước ta thời kì đổi mới.
– Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa lúc đầu được in trong tập Bến quê([7]), sau được Nguyễn Minh Châu lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987). Chiếc thuyền ngoài xa rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn hiện thực đa chiều đã giúp ông nhận ra đời sống con người bao gồm cả những quy luật tất yếu lẫn những ngẫu nhiên may rủi khó bề lường hết. Ông day dứt về việc con người phải chấp nhận những nghịch lí không đáng có. Gánh nặng mưu sinh đè trĩu trên đôi vai cặp vợ chồng hàng chài, giam hãm họ trong cảnh tăm tối, đói khổ, bấp bênh. Người chồng tha hoá dần, trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người vợ vì thương con nên nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi của chồng mà không biết rằng đã làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại. Cậu bé yêu mẹ, bênh vực mẹ thành ra thù địch với cha và ai biết được liệu trong tương lai cậu có thể sống khác cha mình ? Phía sau câu chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin yêu, sự trân trọng trước vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và bao dung của người phụ nữ. Đó không phải kiểu vẻ đẹp chói sáng, hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp lam lũ của đời thường. Theo ông, tình yêu ở người nghệ sĩ "vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người xung quanh mình"([8]).
Câu hỏi 1
A) Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn : tình huống hành động, tình huống tâm trạng và tình huống nhận thức. Nếu tình huống hành động chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước ngoặt của nhân vật, tình huống tâm trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật thì tình huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút "giác ngộ" chân lí của nhân vật. 
B) ở Chiếc thuyền ngoài xa, kết thúc sự kiện người đàn bà được mời đến toà án huyện để giải quyết bi kịch gia đình lại là "Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển". Như vậy, các chi tiết chính của câu chuyện đều được định hướng "chuẩn bị" cho sự nhận thức mới mẻ của Đẩu. Đó là các chi tiết :
- Người đàn ông đánh vợ. Cần tìm hiểu chi tiết này từ phương diện tâm lí, tính cách nhân vật. Vì sao khi mới rời thuyền, người đàn ông "lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới" của người đàn bà nhưng chỉ khi hai người đã đi khuất vào sau chiếc xe rà phá mìn "to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng" thì lão "lập tức trở nên hùng hổ" ? Vì sao trong khi "trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà" giọng lão lại "rên rỉ đau đớn" ? Vì sao chuyện lão đánh vợ diễn ra thường xuyên và việc lão đánh vợ ở bãi xe tăng hỏng có phải là ngẫu nhiên không ?
- Thái độ cam chịu đầy nhẫn nhục của người đàn bà : "không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn". Đây là một thái độ lạ lùng. Phải chăng bà ta bị đòn nhiều đến mức quen rồi, không còn biết đau nữa ? Hay bà ta tăm tối, dốt nát đến mức không còn chút ý thức về quyền sống của mình ? Hay đó là một sự lựa chọn bất đắc dĩ nhưng đã được suy tính kĩ lưỡng, sáng suốt ? Trong hoàn cảnh con đông mà cuộc sống trên mặt nước đầy nhọc nhằn, bất trắc, nỗi lo cơm áo không lúc nào buông tha, liệu bà ta có cách lựa chọn nào tốt hơn không ? Phải chăng tác giả đã dùng hình ảnh bãi xe tăng hỏng như một gợi ý rằng cuộc chiến đấu chống đói nghèo, tăm tối còn gian nan hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại xâm và chừng nào chưa thoát khỏi đói nghèo, chừng đó con người còn phải chung sống với cái xấu, cái ác ?
– Sau khi thấy các biện pháp giáo dục, răn đe người chồng không có kết quả, Đẩu - với tư cách thẩm phán huyện - đã khuyên người vợ nên li hôn để khỏi bị hành hạ, ngược đãi. Anh mời người đàn bà đến công sở để trao đổi về vấn đề này. Có lẽ Đẩu đã tin rằng giải pháp mình chọn cho bà ta là đúng đắn. Nhưng sau buổi nói chuyện thì mọi lí lẽ của anh đều bị người đàn bà chất phác, lam lũ "bác bỏ". Hoá ra lòng tốt của anh là lòng tốt phi thực tế. Anh bảo vệ luật pháp bằng sự thông hiểu sách vở nên trước cuộc sống đích thực anh trở thành kẻ nông nổi, ngây thơ. Người đàn bà hàng chài thất học, quê mùa nhưng thật sâu sắc khi "nhìn suốt cả đời mình" đã khiến "Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển". Có thể anh vừa "ngộ" ra những nghịch lí của đời sống - những nghịch lí con người buộc phải chấp nhận, phải "trút một tiếng thở dài đầy chua chát" : "trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo". Cũng có thể, anh bắt đầu hiểu ra rằng muốn con người thoát khỏi cảnh đau khổ, tăm tối, man rợ cần có những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn. 
C) Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp một cảnh biển thật đẹp đẽ làm lịch (chỉ có phong cảnh). Theo dõi sự kiên nhẫn, công phu của anh suốt tuần lễ lang thang ở bờ biển, nơi có phong cảnh "thật là thơ mộng", đặc biệt, chứng kiến giây phút "hạnh phúc tràn ngập tâm hồn" anh do "cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh" mang lại, có thể nói Phùng là nghệ sĩ đang săn tìm cái Đẹp. Và anh đã thoả mãn với "cái đẹp ngoại cảnh" – đó là hình ảnh con thuyền nhìn từ xa. Nhưng rồi khi chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ Phùng đứng, anh bắt đầu nhận ra một sự thực trần trụi, khắc nghiệt. Cũng như Đẩu, anh hoàn toàn bất ngờ trước thái độ lạ lùng của người đàn bà hàng chài. Anh đã đánh nhau với chồng bà ta để bảo vệ bà ta. Anh tốt bụng, cao thượng nhưng cũng ít thực tế, lại bị định kiến chi phối (Câu hỏi : "Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không ?") nên lúc đầu đã có phản ứng phẫn nộ trước thái độ cam chịu của người đàn bà ("tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá"). Sau đó anh đã dịu đi với câu hỏi tò mò và thông cảm ("Cả đời chị có lúc nào thật vui không ?"), cũng có thể đấy là thái độ hoang mang, hoài nghi khi niềm tin của anh bắt đầu lung lay. Khi nhận ra Đẩu "rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ" cũng là lúc nghệ sĩ Phùng "ngộ ra" mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.
Câu hỏi 2
Nguyên nhân trực tiếp của tình trạng bạo lực trong gia đình hàng chài là sự tăm tối và thói vũ phu của người đàn ông. Nhưng nguyên nhân sâu xa là tình trạng đói nghèo, là đời sống bấp bênh k** dài gây ra tâm lí bế tắc, u uất.
Hậu quả của tình trạng bạo lực trong gia đình cậu bé Phác là nỗi đau khổ nặng nề mà người mẹ và những đứa con phải gánh chịu. Người mẹ không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị giày vò về tinh thần vì bà luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương. Dù bà hết sức che chắn (xin chồng đừng đánh mình trên thuyền, trước mặt con cái) nhưng rồi những đứa con vẫn biết sự thật khiến bà "vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã". Đứa con - cậu bé Phác - vì yêu mẹ, thương mẹ mà thành căm ghét bố. Nó xông vào đánh bố để bảo vệ mẹ và như vậy niềm tin trong trẻo của tuổi thơ đã bị rạn vỡ.
Nói về tệ nạn này, Nguyễn Minh Châu không chỉ lên án thói vũ phu, báo động về tình trạng bạo lực mà còn ca ngợi vẻ đẹp của tình mẫu tử, lên tiếng bảo vệ khát vọng được sống trong yêu thương, yên bình của trẻ em. Con mắt nhân đạo của nhà văn còn thể hiện ở nỗi lo âu đầy trách nhiệm : cậu bé sẽ thành người thế nào nếu môi trường sống không được thay đổi tích cực ?
Câu hỏi 3
Thói vũ phu của người đàn ông hàng chài được tác giả đặt dưới những sự phán xét rất khác nhau : Đẩu nhìn dưới góc độ luật pháp, Phùng nhìn dưới góc độ "lí lịch, thành phần", Phác nhìn bằng con mắt trẻ thơ thơ ngây, thương mẹ và căm ghét bố. Người đàn bà : thương xót và thấu hiểu. Đây là cách Nguyễn Minh Châu đối thoại với bạn đọc : đưa con người vào cái khung đời sống nhiều chiều, dân chủ hoá mối quan hệ giữa nhà văn và công chúng, khơi gợi, nêu vấn đề để bàn bạc chứ không áp đặt chân lí cho công chúng.
Câu hỏi 4
Ấn tượng của Phùng tưởng "lạ lùng" nhưng hoàn toàn hợp lô gích. Thứ nhất, nó giống như một sự ám ảnh sâu sắc đối với người nghệ sĩ. Phùng sẽ nhìn bức ảnh lịch qua sự ám ảnh đó chứ không nhìn bằng con mắt khách quan. Thứ hai, "mỗi lần ngắm kĩ" tức là anh đang sống lại kỉ niệm, màn sương màu hồng hồng anh đã bắt gặp trong niềm hân hoan phát hiện ra vẻ đẹp nên thơ nơi bờ biển ấy. Còn "nếu nhìn lâu hơn" anh sẽ thấy "người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh... hoà lẫn trong đám đông". Phải chăng đây là cái nhìn sâu sắc của nghệ thuật, là lời kêu gọi của Nguyễn Minh Châu : hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật với hiện thực ! Nếu nghệ sĩ mang trái tim có tình yêu sâu nặng với con người, anh ta cần phải trung thực, dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực, trước hết phải nhìn vào số phận con người.
Câu hỏi 5
Qua sự đối lập giữa "cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh" với hiện thực nhọc nhằn, cay cực của những người dân chài, chắc chắn người đọc cũng như nhân vật phóng viên Phùng trong truyện đều mong muốn nghệ thuật phải dành ưu tiên trước hết cho con người, phải góp phần giải phóng con người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Muốn vậy, nghệ sĩ không thể nhìn cuộc đời bằng con mắt đơn giản, dễ dãi, phải có tấm lòng, có can đảm và biết trăn trở về con người. Chiếc thuyền ngoài xa thì nhìn rất đẹp nhưng khi nó ở gần, khi cuộc sống trần trụi phơi bày chẳng có chút gì thi vị như người phóng viên đã cảm nhận trước đó. Rất nhiều nhan đề tác phẩm của Nguyễn Minh Châu có ý nghĩa biểu tượng và là sự gợi mở chủ đề (Mảnh trăng cuối rừng, Bến quê, Bức tranh, Một lần đối chứng, Mảnh đất yêu,...).
Hiện có nhiều quan niệm khác nhau về chức năng của nghệ thuật nói chung, của văn học nói riêng. Căn cứ trên câu chuyện được kể, GV gợi ý để HS tiếp cận tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Theo đó, nhấn mạnh vào mối quan hệ khăng khít giữa nghệ thuật với đời sống, vào yêu cầu hiểu biết và bản lĩnh trung thực của nghệ sĩ. Chủ nghĩa nhân đạo trong nghệ thuật không thể xa lạ v ... n khi xây dựng nhân vật ông luôn có ý thức đặt nhân vật của mình lên bàn xoay để từ đó từng góc độ, từng khía cạnh của nhân vật tự bộc lộc. Người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa là một nhân vật như thế.
B.
THÂN BÀI
1.
Luận điểm 1: Người đàn bà làng chài trong cái nhìn đầu tiên của nhân vật Phùng
Người đàn bà xuất hiện lần đầu tiên trong sự chứng kiến của Phùng, một nhiếp ảnh gia sau khi đã chứng kiến một cảnh đắt trời cho. Nguyễn minh Châu miêu tả "Người đàn bà trạc ngoài bốn mơi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Đây là nhân vật tiêu biểu cho dạng "nhân vật tính cách - số phận"
trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Bằng một giọng văn lạnh lùng, tác giả đã giúp người đọc tiếp cận nhân vật của mình từ phương diện ngoại hình tuổi tác nhưng chỉ bằng vài thông tin ngắn gọn mù mờ: người đàn bà ấy trạc bốn mươi, người miền biển, thân hình cao lớn thô kệch. Người đàn bà miền biển ấy lại được gọi bằng "mụ", "mụ rỗ mặt". Người đàn bà ấy không tên. Tác giả chỉ gọi là "người đàn bà" một cách phiếm định. Tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này. 
Trong những chi tiết đầu miêu tả nhân vật người đàn bà làng chài tôi chú ý hơn đến chi tiết "Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Đây là một chi tiết đắt để tác giả nhấn mạnh sức cam chịu của người đàn bà trước những đắng cay tủi hờn mà người chồng vũ phu gây ra. Thông thường sau một đêm thức trắng, mệt mõi và buồn ngủ sẽ khiến con người ta trở nên cáu gắt. Ấy thế mà người đàn vẫn chịu đựng những cơn cuồng nộ không có lí do của người chồng vũ phu trong trạng thái tâm lí ấy. Và cũng bắt đầu từ những chiếc này, nhân vật bắt đầu hé lộ những phẩm chất đáng quý. 
Khi đã cùng chồng vào bờ, người đàn bà làng chài ấy thừa biết chuyện gì sẽ sắp xãy ra với mình. Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng một chi tiết giàu ý nghĩ: "Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân". Tại sao người đàn bàn ấy lại phải nhìn trở lại mặt phá nơi có chiếc thuyền của gia đình bà đang neo đậu. Phải chăng đó là cái nhìn để thêm một lần xác thực không có đứa con nào của bà trên chiếc thuyền ấy phải mục kích cảnh cha của chúng hành hạ mẹ chúng. Sau khi đã chắc chắn, lũ con sẽ không nhìn thấy người đàn bà ấy đã "sửa soạn" cho mình một tâm thế để hứng chịu trận đòn của ông chồng vũ phu. Bà đã phải chịu một trận đòn phủ phàng từ chiếc thắt lưng của người chồng độc dữ. Nhưng người đàn bà ấy vẫn "cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn".Tuy nhiên bà không ngờ thằng Phác đã phát hiện và nó đã chạy sổ đến giật chiếc thắt lưng từ tay của cha mình. Hậu quả của tình trạng bạo lực trong gia đình cậu bé Phác là nỗi đau khổ nặng nề của người mẹ. Lúc này người mẹ khổ đau ấy không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị giày vò về tinh thần: "Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà". Bà luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương. Dù bà hết sức che chắn (xin chồng đừng đánh mình trên thuyền, trước mặt con cái) nhưng rồi những đứa con vẫn biết sự thật khiến bà "vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã". Đứa con - cậu bé Phác - vì yêu mẹ, thương mẹ mà thành căm ghét bố. Nó xông vào đánh bố để bảo vệ mẹ và như vậy niềm tin trong trẻo của tuổi thơ đã bị rạn vỡ.
2.
Luận điểm 2: Người đàn bà làng chài trên tòa án huyện
Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng chài đã đến tòa án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng nhất quyết không bỏ người chồng vũ phu. Chị đã kể về cuộc đời mình
và đó cũng là lí do giải thích cho việc từ chối trên. Thái độ cam chịu đầy nhẫn nhục của người đàn bà : "không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn". Đây là một thái độ lạ lùng. Phải chăng bà ta bị đòn nhiều đến mức quen rồi, không còn biết đau nữa ? Hay bà ta tăm tối, dốt nát đến mức không còn chút ý thức về quyền sống của mình ? Hay đó là một sự lựa chọn bất đắc dĩ nhưng đã được suy tính kĩ lưỡng, sáng suốt ? Trong hoàn cảnh con đông mà cuộc sống trên mặt nước đầy nhọc nhằn, bất trắc, nỗi lo cơm áo không lúc nào buông tha, liệu bà ta có cách lựa chọn nào tốt hơn không ?
Người đàn bà hàng chài thất học, quê mùa nhưng thật sâu sắc khi "nhìn suốt cả đời mình"đã khiến "Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển".Có thể anh vừa "ngộ" ra những nghịch lí của đời sống - những nghịch lí con người buộc phải chấp nhận: "trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo". Bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản bởi trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khoẻ mạnh và biết nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. Người đàn bà xấu xí thô kệch ấy có vẻ bề ngoài thật quá nhẫn nhục, cam chịu "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng"nhưng vẫn không chịu "chia tay" với gã chồng vũ phu tàn bạo. Bởi vì, như lời giãi bày gan ruột của người mẹ đáng thương ta mới thấy bà có một tấm lòng hi sinh vô bờ "đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình". Một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng để chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hi sinh. Nhìn bề ngoài, đó là người đàn bàn quá nhẫn nhục, cam chịu, bị đánh đập... mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão chồng vũ phu. Nhưng tất cả đều xuất phát từ tình thương vô bờ đối với những đứa con. Trong đau khổ triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi "Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no"....
Mời người đàn bà ấy lên, Đẩu và Phùng muốn nhân danh công lí, thuyết phục người đàn bà ấy thoát khỏi sự hành hạ về thể xác lẫn tinh thần nhưng rút cuộc, cả Đẩu và Phùng chỉ như những đứa trẻ, đi hết bất ngờ rồi phẫn nộ rồi im lặng trước lời thú tội, kể lể của người đàn bà: "Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc". Hóa ra, ở người đàn bà xấu xí và tội nghiệp này là cả một hiện thực "bất khả tri". Bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng như chức phận mà mình có được, thỏa nguyện vì chức phận đó. Trong thâm tâm bà, những nỗi đau đớn mà mình gánh chịu xứng đáng như thế vì bởi bà đẻ nhiều con quá. Điều đó đồng nghĩa với cái đói, cái nghèo khổ còn bám riết lấy gia đình này. Nhưng thực tế, cái đói, cái nghèo khổ đâu chỉ bởi bà đẻ nhiều, mà nó cũng là một thiên chức rất đàn bà thôi. Trong lời thú tội ngậm ngùi, chân thật và tê tái của bà, có những câu hỏi không dễ trả lời, những mâu thuẫn khó giải thích: để yêu thương và sống qua muôn nỗi khó khăn, cơ cực, đôi khi người ta phải chấp nhận sự tàn nhẫn, tha hóa, phi đạo đức. 
Với người đàn bà thuần hậu ấy, tuy bị chồng của mình hành hạ nhưng bà vẫn thông cảm sẻ chia với những uẩn ức trong lòng của chồng bà. Bà cho rằng chồng bà cũng không hẳn hoàn toàn xấu. Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến "anh con trai cục tính nhưng hiền lành" xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ, đánh như để giải toả uất ức, để trút cho sạch nỗi tức tối, buồn phiền. 
Trong cuộc gặp gỡ trên tòa án huyện sự "vỡ ra" trong đầu của Đẩu và Phùng khổng chỉ có hoàn cảnh sâu kín của người đàn bà mà còn ở chính người đàn bà ấy, một người phụ nữ săc sảo tinh tế hiểu đời được đậy che bằng vẻ ngoài cam chịu nhẫn nhục. Hãy quan sát cách nói chuyện ta sẽ hiểu hơn
về
người phụ nữ khổ đau ấy. Lúc đầu người đàn bà ban đầu xưng con, tha quý toà, giọng van xin thảm hại (Con lạy quý toà... ; chú ý không chỉ nói, mà còn làm : chắp tay lại vái lia lịa). Nhưng sau đó cách nói năng và cử chỉ thay đổi: không cúi gục xuống nữa, mà ngẩng lên và nhìn thẳng vào quý toà, với cách của một người tự chủ (lần lượt từng người một) ; đổi xưng hô thành chị với các chú. Xưng con là ở một vị thế thấp hơn ; xưng chị, gọi chú, là ở một vị trí cao hơn, mà cũng thân mật hơn tạo hiệu quả giao tiếp: thuyết phụ đối tượng nghe. Qua đó ta thấy đây là một con người có khả năng nắm bắt tâm lí của người khác. Để từ vị trí của một người bị động, một bị mời lên tòa án huyện để thuyết phục bỏ chồng thì chính người đã bà ấy lại là người thuyết phục ngược lại Phùng và Đẩu 
Câu chuyện của người đàn bà trên tòa án huyện là câu chuyện về sự thật một cuộc đời, nó giúp những người như Phùng, Đẩu hiểu rõ nguyên do của những điều tưởng như vô lí. Nhìn bề ngoài, đó là người đàn bàn quá nhẫn nhục, cam chịu, bị đánh đập... mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão chồng vũ phu. Nhưng tất cả đều xuất phát từ tình thương vô
bờ đối với những đứa con. Trong đau khổ triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi.... Qua câu chuyện của người đàn bà làng chài, tác giả giúp người đọc hiểu rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của đời sống.. 
Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nàoThế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho "một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển". Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dungmang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.
KẾT BÀI
Qua nhân vật người đàn bà làng chài, ta thấy được vẻ đẹp của ngòi bút Nguyễn Minh Châu. Đó là vẻ đẹp toát ra từ tình yêu tha thiết đối với con người. Tình yêu ấy bao hàm cả khát vọng tìm kiếm, phát hiện, tôn vinh những vẻ đẹp con người còn tiềm ẩn, những khắc khoải, lo âu trước cái xấu, cái ác. Đó cũng là vẻ đẹp của một cốt cách nghệ sĩ mẫn cảm, đôn hậu, điềm đạm chiêm nghiệm lẽ đời để rút ra những triết lí nhân sinh sâu sắc.     

Tài liệu đính kèm:

  • docTONG HOP CAC BAI CHIEC LA NGOAI KHOI XA.doc