Giáo án môn Ngữ văn 12 - Đất Nước qua dòng suy tưởng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

Giáo án môn Ngữ văn 12 - Đất Nước qua dòng suy tưởng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị.

Trong những ngày tham gia kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Trị Thiên, Nguyễn Khoa Điềm đã có những xúc cảm, suy tư nồng thắm sâu sắc về đất nước về nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước. Từ đó, nhà thơ đi đến sự nhận thức đúng đắn về vai trò trách nhiệm của thế hệ thanh niên trí thức - những người chủ chân chính của đất nước, phải tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến của nhân dân để giải phóng dân tộc, đưa đất nước đi xa hơn đến những tháng ngày mơ mộng. Trường ca Mặt đường khát vọng hình thành trong bối cảnh ấy, và có thể xem chương Đất Nước là nơi dồn nén cảm xúc và kết tinh những suy tư có tính chân lý của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước và Nhân Dân, được chuyển tải qua những lời nghệ thuật dung dị, lại có khả năng truyền cảm sâu sắc đến bao thế hệ độc giả.

Mở đầu cho dòng suy tưởng, Nguyễn Khoa Điềm nhận thức về sự tồn tại lâu dài của đất nước trong suốt "thời gian đằng đẵng" bốn ngàn năm văn hiến. Thi nhân khẳng định:

 

doc 20 trang Người đăng hien301 Lượt xem 1483Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn 12 - Đất Nước qua dòng suy tưởng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đất Nước qua dòng suy tưởng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị...
Trong những ngày tham gia kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường Trị Thiên, Nguyễn Khoa Điềm đã có những xúc cảm, suy tư nồng thắm sâu sắc về đất nước về nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước. Từ đó, nhà thơ đi đến sự nhận thức đúng đắn về vai trò trách nhiệm của thế hệ thanh niên trí thức - những người chủ chân chính của đất nước, phải tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến của nhân dân để giải phóng dân tộc, đưa đất nước đi xa hơn đến những tháng ngày mơ mộng. Trường ca Mặt đường khát vọng hình thành trong bối cảnh ấy, và có thể xem chương Đất Nước là nơi dồn nén cảm xúc và kết tinh những suy tư có tính chân lý của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước và Nhân Dân, được chuyển tải qua những lời nghệ thuật dung dị, lại có khả năng truyền cảm sâu sắc đến bao thế hệ độc giả.
Mở đầu cho dòng suy tưởng, Nguyễn Khoa Điềm nhận thức về sự tồn tại lâu dài của đất nước trong suốt "thời gian đằng đẵng" bốn ngàn năm văn hiến. Thi nhân khẳng định:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi..
Đất nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa“... mẹ thường hay kể.
Âm hưởng của lời thơ lắng đọng như giọng kể chuyện tâm tình thủ thỉ giữa những kẻ thân thương, gợi ra ở người nghe dòng liên tưởng trôi về một thời quá khứ xa xăm, trong ấy trầm tích bao huyền sử tự hào về cuộc sống chiến đấu của cha ông. Nhà thơ đã sử dụng thi pháp tuyệt vời ở câu thơ bỏ ngỏ. Sau trạng ngữ chỉ thời gian "Ngày xửa ngày xưa"..., lời kể của mẹ được chuyển sang cho người đọc tự liên tưởng hình dung về bao hình tượng đẹp một thời làm xôn xao tuổi mộng vàng như Thánh Gióng, Trần Quốc Toản, Mai An Tiêm... Cả một nền văn hoá, văn học dân gian với bao thần thoại, truyền thuyết phong phú làm sao có thể gói trọn trong mấy vần thơ. Thi nhân như trao cho người đọc chiếc chìa khoá để tự mình khám phá cái kho tàng văn hoá phong phú tổ tiên trao lại. Lần về mảnh vườn cổ tích ấy, những ai có lòng chắc chắn sẽ tự mình chắt chiu được những giọt mật mà bồi dưỡng tâm hồn thiện chân, tìm đến một lẽ sống đẹp.Truy tìm về cội nguồn Đất Nước, khó ai có thể xác định minh bạch cái ngày tháng khởi thuỷ của nó, cho dù là nhà khảo cổ hay sử gia. Nguyễn Khoa Điềm lại xác định cái buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi mình biết trồng tre mà đánh giặc
Không ai lấy tiêu chuẩn đo lường của nhà khoa học để bắt bẻ thi nhân. Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị. Bởi lẽ, thẩm thấu vào các tế bào mỏng manh ấy, là những mối quan hệ tình nghĩa truyền thống đẹp của con người Việt Nam.Trong tục cúng lễ, miếng trầu quả cau là biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến hồn thiêng những bậc đã khuất, là nhịp cầu giao cảm với tiền nhân. Miếng trầu gợi ra huyền sử tình yêu, nói lên mối quan hệ vợ chồng chung thuỷ, nghĩa anh em Tân - Lang trọn vẹn. Và có lẽ từ đó, miếng trầu trở thành vật biểu trưng cho tình yêu và hôn nhân. Miếng trầu giúp dẫn mối tìm nhau, để cho con người phải lứa nên duyên, là nhân tố tạo nên bao đôi uyên ương chắp cánh chung cành. Để rồi khi họ về già, thong thả nhai miếng trầu, nhớ buổi thanh xuân tình nồng nghĩa đượm, mà đột nhiên nở nụ cười mãn nguyện chuyện tình xưa.
Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước từ buổi "dân mình biết trồng tre mà đánh giặc". Đất nước Việt có điều kiện thổ nhưỡng phù hợp tạo điều kiện cho cây tre sinh sôi phát triển khắp mọi miền của Tổ Quốc, đem lại một màu xanh bát ngát cho quê hương. Nguyễn Duy cũng từng trăn trở về những phẩm chất kì lạ của cây tre Việt :
Tre xanh xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu?
Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất đôi khi ngỡ là đối lập trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình như cây tre mềm mại để hoá thành những vật dụng xinh xắn trong cuộc sống con người: nhỏ nhắn như cây tăm, đôi đũa; êm ái như chiếc nôi ru ta lớn lên vào đời; yên ổn vững chắc như "cái kèo cái cột thành tên", làm nên ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống như Nguyễn Duy so sánh:
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù.
Đến khi cả dân tộc lên đường ra trận, quyết giành lại độc lập tự do, thì tre cũng đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc Việt , thậm chí "một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi "nòi tre đâu chịu mọc cong, chưa lên đã nhọn như chông lạ thường".
Từ những giá trị vật chất bình dị thân quen, Nguyễn Khoa Điềm gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Đó không ai khác là những người mẹ, người cha một đời kính trọng thuỷ chung, "thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Tình cảm chân thành ấy không phải là lớp son phấn với "sắc màu lộng lẫy, sáo ngữ ồn ào", mà là những nét duyên như búi tóc mẹ bới sau đầu gọn gàng ý nhị, đủ để làm cho con tim xao xuyến khi gần nhau, và khi xa thì không bao giờ nguôi ngoai nhung nhớ, để rồi họ bật lên những câu ca dao nghe như muối xát tâm can:
Thiếp nhớ chàng tấm phên hư nuộc lạt đứt
Chàng nhớ thiếp khi đắng nước nghẹn cơm
Ba trăng là mấy mươi hôm
Mai nam vắng trước chiều nồm quạnh sau.
Nguyễn Khoa Điềm lại có một cách nhìn thấu triệt theo thời gian hao phí lao động để kết tinh một hạt gạo trắng trong. Nó phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng.Thắm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Nhiều người chỉ biết hưởng thụ hững hờ mà quên đi lời dạy "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", nên Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo nhắc nhở chúng ta nhai hạt cơm dẻo nên nhớ đến công lao của người làm ra nó, để không làm họ buồn lòng phải cất lời nhắc nhở:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Nguyễn Khoa Điềm thật tài tình, khi ông cụ thể hoá khái niệm đất nước trừu tượng lớn lao cả về chiều "thời gian đằng đẵng", lẫn "không gian mênh mông" vào trong những hình ảnh nhỏ bé như hạt gạo, nhưng lấp lánh bao tầng ý nghĩa sâu sắc, có giá trị biểu trưng những nét bản chất và tinh hoa của dân tộc, của Đất Nước Việt Nam. Đề cập đến hạt gạo là nói đến nền kinh tế nông nghiệp đặc trưng, được quy định bởi điều kiện thổ nhưỡng thuận lợi của nước Việt. Nhân dân lao động gắn mình trong môi trường đất đai từ đời này qua đời khác, sẽ định hình nên những nét cốt cách của con người Việt . Họ yêu quý đất đến mức xem "Tấc đất tấc vàng". Và vì vậy, họ sẵn sàng hiến thân vì non sông đất nước như Chế Lan Viên từng cảm xúc:
Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông
( Sao chiến thắng )
Tính triết lý trong dòng suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm vừa sâu sắc vừa đầy sức thuyết phục. Chỉ vài dòng thơ ngắn và tinh tế, thi nhân đã đi đến một kết luận có tính khẳng định "Đất Nước có từ ngày đó ..." và do nhân dân lao động tạo dựng nên, để cho chúng ta hôm nay được thụ hưởng hạnh phúc một cách cụ thể thiết thực, chứ không hề là một tình cảm thuần tuý mơ hồ đã thuộc về quá khứ. Nguyễn Khoa Điềm giải thích một cách đơn giản:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Nhà thơ nhắc đến ngôi trường cái bến, một toạ độ lưu dấu kỷ niệm tình yêu. Các địa danh ngỡ là rời rạc riêng tư, nhưng thực chất đó là linh hồn của Đất Nước, là dấu ấn tình cảm sâu sắc của con người Việt . Ngôi trường là nơi cung cấp hành trang tri thức cho mỗi chúng ta tự tin để làm chủ cuộc sống. Dòng sông không chỉ mang phù sa màu mỡ làm xanh những cánh đồng mà là nguồn nước tắm mát đời ta, gắn bó đến mức như Hoàng Cầm mang theo hình ảnh con sông Đuống quê hương trong hồn với dáng nghiêng nghiêng dài theo cuộc kháng chiến. Và khi sông Đuống tạm thời bị quân giặc chiếm đóng, ông đau đớn bàng hoàng đến mức thốt lên lời than nhức nhối: "Sao xót xa như rụng bàn tay".
Nêu một địa chỉ hẹn hò mà thành Đất Nước nghe có vẻ mơ hồ, nhưng nó là minh chứng của tình yêu, là khởi phát của một gia đình, và có muôn nhà mới góp thành đất nước. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và Tổ Quốc, là sự thống nhất liền mạch mỗi tấc đất của quê hương, tồn tại trong "thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông".Trong ấy, bao thế hệ nối tiếp nhau quản lí đất nước từ dãy Trường Sơn hùng vĩ - "Nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” cho đến biển bờ Thái Bình Dương vỗ sóng mênh mang - nơi "Con cá ngư ông móng nước biển khơi". Nguyễn Khoa Điềm với một tình cảm tự hào, ông gợi lại huyền sử lung linh về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân Lạc Việt gợi ra cái chất keo đồng bào huyết mạch - yếu tố tạo nên tình đoàn kết "dân mình đoàn tụ” bên nhau đứng vững như Trường Sơn thử thách với bao mưa gió của trời, của đời.
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau.
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
Nguyễn Khoa Điềm trong chiều xúc cảm hướng nội, ông còn thấy ra Đất Nước đã thâm nhập vào trong chiều sâu của mỗi con người. Trong chính bản thân thi sĩ đã chan hoà bóng hình tinh hoa của đất nước, tan trong dòng máu thắm, vang lên trong âm điệu giọng nói ngọt ngào. Nhà thơ cảm nghiệm rằng:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn.
Quả là tinh tế! Nguyễn Khoa Điềm như đang tự phân thân để kiểm chứng lại mình. Đất Nước trong ta hài hoà nồng thắm, thấy được qua màu da, giọng nói, nếp nghĩ, cách làm. Mang quốc tịch Việt , khi ta so sánh trong mối tương quan với bạn bè quốc tế, thì nhận diện sự khác biệt ấy không mấy khó khăn. Nó giúp ta tự hào với lịch sử anh hùng, với giang sơn cẩm tú, với dân tộc nhân ái bao dung, với mỗi con người thuỷ chung trách nhiệm, để rồi lòng dặn lòng rằng:
Mai sau này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Nhà thơ với con m ... ảm, sức lực, máu xương mà còn đóng góp cả trí tuệ về truyền thống hiếu học, vượt khó để làm nên Đất Nước:
“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên”
Và cả những con vật gần gũi với tâm linh, với cuộc sống sinh hoạt đời thường của nhân dân cũng góp phần làm nên Đất Nước
“Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”
Đoạn thơ đã kết hợp được những chất liệu một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo của tác giả. Nhà thơ đã sử dụng dày đặc ngôn nhữ chỉ địa danh trải rộng theo chiều dài địa lý, từ Bắc vào Nam lấp dầy không gian Đất Nước trên mọi địa hình núi cao, trung du cho tới đồng bằng. Con chữ và các từ chỉ địa danh lan tới đâu, không gian mở đường theo tới đó, gợi một hình tượng về hành trình khai đất mở đường, biến ruộng hoang cùng với rừng sâu nước thẳm thành nơi sinh cư lập nghiệp, trù phú của biết bao thế hệ. Song hành cùng ngôn ngữ là những thi liệu văn hoá, văn học dân gian gợi nhắc cho chúng ta những truyền thống quý báu của dân tộc, khơi gợi lớp trầm tích văn hoá trong những truyền thuyết dân gian. Xen vào đó là bút pháp sáng tạo và cách viết logic với huyền thoại hoá mỗi dáng núi, hình sông tạo nên những địa danh không đơn thuần chỉ là những cái tên mà nó là số phận, cảnh ngộ, khát vọng của nhân dân. Lớp lớp người thay nhau hoá thân, in dấu vào từng tấc đất, ngọn núi dòng sông tạo nên một dáng hình xứ sở. Bằng những từ ngữ cụ thể mà tác giả đã khái quát được :
“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”
Đã tác động sâu sắc vào nhân thức, rung cảm của độc giả.
Thậm chí, tên tuổi của nhân dân cũng góp cho Đất Nước cũng chuyển hoá thành tên Đất Nước:
“Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Sự đóng góp của nhân dân cho Đất Nước thật lớn lao, tự nguyện và vô cùng cao cả ! Từ đó, nhà thơ đã đi đến kết luận :
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”
Trên khắp Đất Nước ta, từ ruộng đồng đến gò bãi, từ Bắc chí Nam, từ quá khứ cho tới hiện tại và vươn ra tương lai, mỗi ngọn núi con sông đều là kết quả của sự hoá thân kì diệu từ cuộc đời của mỗi người dân. Chính vì vậy, Đất Nước là sự hợp thành và hoà quyện của những cuộc đời biết gắn bó, san sẻ và hoá thân của dáng hình xứ sở. Truyền thống yêu nước, ý thức tự nguyện hiến dâng cho Đất Nước đã trở thành nột lối sống đẹp của con người Việt Nam . Khi Nguyễn Khoa Điềm viết bản trường ca này. Đất Nước đang bị chia cắt nhưng trong tư duy và cảm quan của nhà thơ, Đất Nước liền một dải. Những tên núi, tên sông, những sự tích và truyền thuyết  đếu gắn bó máu thịt trên một cơ thể thống nhất. Vừa thấy núi Vọng Phu ở Lạng Sơn hay Bình Định, đã thấy hòn Trống Mái ở Sầm Sơn xứ Thanh, thấy dấu tích gót ngựa Thánh Gióng suốt dải đất từ Bắc Ninh tới Lạng Sơn, chín mươi chín con voi ở đất Tổ Hùng Vương Phú Thọ lại thấy những con rồng xanh thẳm ở Đồng Bằng Nam Bộ, những núi Bút, non Nghiên ở xứ Quảng cùng với con cóc, con gà trên thắng cảnh Hạ Long, những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm là những địa danh lịch sử ở ba miền Bắc - Trung - Nam trên Tổ quốc. Thi sĩ đã sử dụng phép liệt kê thật tài tình, tạo ra sự nhấn mạnh vào vai trò sản sinh, lưu truyền, nuôi dưỡng và phát triển những giá trị vật chất xen lẫn tinh thần nhằm tạo nên “Đất Nước”. Đất Nước thống nhất từ trong máu thịt, từ trong ước vọng của con người Việt Nam như thế thì nào có thể chia sẻ được ?
Trên phương diện địa lý ấy, Đất Nước là sự hợp thành của những cuộc đời đã hoá núi sông ta. Còn trên phương diện lịch sử, tác giả nhấn mạnh đến sự góp phần của những con người bình dị, vô danh trong việc làm nên Đất Nước muôn đời. Nhà thơ chuyển sang giọng điệu tâm tình với “em” mà tìm sự đồng cảm ở hết thảy chúng ta
“ Em ơi em
Hãy nhìn từ rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước”
“Em” là nhân vật trữ tình không xác định, nhưng cũng có thể là sự phân thân của tác giả để độc thoại với chính mình. Lời tỏ tình mang giọng điệu tâm tình mà trĩu nặng suy tư. Với lối tâm tình, trò chuyện, nhà thơ đưa ta trở về quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc, bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, bốn nghìn năm hầu như không bao giờ nguội tắt ngọn lửa đấu tranhchống giặc ngoại xâm
“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Nhìn vào lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, kể tên các bậc vua chúa hay những vị anh hùng dân tộc đã từng rạng danh sử sách, văn chương, mà biểu dươbf sự cống hiến của muôn vàn những con người bình thường trong việc xây dựng, vun đắp và bảo vệ Đất Nước. Hình ảnh “người người lớp lớp”, “bốn nghìn lớp người” chính là biểu tượng cho đông đảo tầng lớp nhân dân kế tiếp nhau. Họ đều mang những đức tính chung của con người lao động như sự cần cù, chất phác và khi có giặc ngoại xâm thì sẵn sàng tự nguyện đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Người con trai ra trận, người con gái ở hậu phương cũng góp sức lực, đảm đang nuôi con để người chồng yên lòng đánh giặc, nhưng khi cần thì giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, đó là hành động tất yếu để bảo vệ mái nhà và bảo vệ quê hương. Những con người anh hùng vô danh ấy có một cuộc sống thật giản dị, chết bình tâm, cống hiến và hy sinh một cách tự nguyện, vô tư, thầm lặng cho Đất Nước. Mặc dù không ai nhớ mặt đặt tên nhưng công lao của họ thật to lớn và đầy ý nghĩa, chính họ đã làm ra Đất Nước. Bằng những câu thơ tuy ngắn ngủi nhưng nhà thơ đã cho ta thấy một sự khẳng định chắc chắn và chặt chẽ về tư tưởng “Đất Nước” của nhân dân
Từ phương diện lịch sử, cảm quan của nhà thơ tiếp tục mở rộng sang phương diện văn hoá để chiêm nghiệm và thêm một lần nữa khẳng định nhân dân là lực lượng đông đảo làm nên Đất Nước:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làngtrong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có mội thù thì vùng lên đánh bại”
Điệp từ “họ” đã khiến cho nhịp thơ trở nên hào hùng xen vào đó là âm điệu hào sáng làm cho đoạn thơ như một khúc tráng ca. Từ sản phẩm vật chất để duy trì sự sinh tồn như hạt lúa ngoài đông, ngọn lửa trong bếp mỗi nhà, đến những sản phẩm tinh thần như tiếng nói, những tên xã tên làng, ý thức tự cường tự chủ, truyền thống đấu tranh anh hùng, bất khuất. Tất cả những gì đã hun đúc nên tinh hoa văn hoá của Đất Nước hôm nay đều do nhân dân tạo dựng, gìn giữ và lưu truyền lại. Như vậy, trên mọi phương diện, “nhân dân” đều đóng vai trò chủ chốt, là chủ thể làm ra Đất Nước và cũng là chủ nhân xây dựng, bảo vệ và gìn giữ Đất Nước. Từ mạch chính luận và suy tưởng ấy, nhà thơ đã dẫn dắt để đi đến kết luận:
“ Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Câu thơ đã xác định cho người đọc thấy rằng chủ nhân của Đất Nước là nhân dân. Những lời khẳng định chắc chắn, đầy tự tin với các từ “Đất Nước”, “Nhân dân” được viết hoa trang trọng và điệp lại trong một âm hưởng ngợi ca, tự hào và nhấn mạnh tư tưởng chủ đạo của toàn chương thơ, tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Và Đất Nước của nhân dân cũng đồng nghĩa với Đất Nước của ca dao thần thoại. Tới đây, chúng ta hiểu vì sao nhà thưo chọn chất liệu văn hoá dân gian để xây dựng hình tượng nghệ thuật. Nền văn hoá dân gian được nhân dân sáng tạo, truyền tụng. Ở đó, vẻ đẹp của tâm hồn, tính cách và cuộc sống nhân dân được bộc lộ rõ nét nhất. Do vậy, nhà thơ đã đặc tuyển chất liệu của nền văn hoá này, nhất là ca dao thần thoại, để tô đậm và khắc nổi hình tượng “Đất Nước của nhân dân”. Cách viết tổng phân hợp đã đi từ cụ thể tới khái quăt được chứng minh và phân tích chặt chẽ, ý thơ luyến láy như một khúc nhạc dân gian ngọt ngào
Cuối đoạn trích, hình tượng “Đất Nước của nhân dân” một lần nữa được thăng hoa trong âm vang của những khúc ca và những thiên huyền thoại
“Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”
Gợi nhắc lại những câu ca dao quen thuộc trong xa xưa
“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”
Tiếp nối theo đó là câu thơ:
“Biết quý công cầm vàng những ngày lăn lội”
xen lẫn với bóng hình ca dao của ông cha thật chặt chẽ
“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng”
Sau đó là câu thơ sau cùng gợi lòng chiến đấu và căm thù giặc ngoại xâm
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Câu thơ song hành cùng câu ca xưa của cha ông thật đáng nhớ:
“Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què”
Ba câu ca dao tiêu biểu đã khái quát đầy đủ những nét nổi bật nhất của tâm hồn, tính cách con người Việt Nam , một dân tộc giàu tình yêu thương, trọng tình trọng nghĩa, bền bỉ và kiên cường. giọng thơ vừa dạt dào cảm xúc lại vừa lắng đọng suy tư, có sức lay động mạnh mẽ lòng người. Cũng từ đây, ta cảm nhận được những nhận thức, suy ngẫm sâu sắc và tình yêu tha thiết của nhà thơ dành cho Đất Nước, cho nhân dân
Đoạn trích là khúc ca về Đất Nước, về nguồn cội sâu xa của Đất Nước và trí tuệ, tâm hồn, ý chícủa nhân dân trong việc tạo nên một Đất Nước muôn đời. Đi suốt đoanthơ ta bắt gặp một thế giới vừa gần gũi, thân quen, lại vừa kì ảo mà mới lạ. Những chất liệu từ truyền thuyết, cổ tích, từ ca dao và tục ngữ, từ cuộc sống đời thường mà bình dị được huy động tự do khiến cho không gian nghệ thuật của cả chương thơ thấm đẫm màu sắc trữ tình huyền thoại và hình tượng Đất Nước hiện lên đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, gắn bó máu thịt với tâm hồn của mỗi con người Việt Nam. Bên trong mạch lập luận logic tưởng như khuôn cứng ấy là các hình ảnh đầy sáng tạo và xúc cảm, tạo nên chất thơ chính luận trữ tình sâu sắc. Tư tưởng bao trùm cảm nhận của nhà thơ về Đất Nước là “Đất Nước của nhân dân”. Đất Nước do nhân dân làm ra, do nhân dân bảo vệ và giữ gìn, Điều đó quy tụ mọi góc nhìn của Đất Nước, từ địa lý và lịch sử tới văn hoá trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, ngôn nhữ và truyền thống dân tộc. Trong thời kì đấu tranh chống giặc ngoại xâm, tư tưởng này có một ý nghĩa vô cúng quan trọng. Những tình cảm hồn hậu, thiêng liêng và gắn bó sẽ hối thúc con người sắn sàng hy sinh để giữ gìn non sông, sẵn sàng đứng về phía nhân dân để cùng chia sẻ, gánh vác xứ mệnh lịch sử “Đất Nước nhân dân” còn có giá trị và ý nghĩa lâu dài, đó cũng chính là sự ca ngợi mồ hôi và xương máu của nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ Đất Nước. Tư tưởng ấy thật giống như lời của Ăng-Ghen đã từng nói “Không có mồ hôi,xương máu thì các dân tộc không có lịch sử”
Duong Quang Thai 

Tài liệu đính kèm:

  • docTONG HOP BAI VIET VE BAI THO DAT NUOC.doc