Câu 1. Quan điểm sáng tác văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh
-Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng. Người đã xác định vị trí và vai trò to lớn của nghệ sĩ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển xã hội. Tinh thần đó đã được Người nói lên trong bài thơ “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi”:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Chất thép ở đây chính là xu hướng cách mạng và tiến bộ về tư tưởng là cảm hứng đấu tranh xã hội tích cực của thơ ca. Quan điểm của Hồ Chí minh là sự tiếp thụ, kế thừa quan điểm dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu trong truyền thống dân tộc và được nâng cao trong thời đại cách mạng vô sản.
-Hồ Chí Minh luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật. Người yêu cầu văn nghệ sĩ phải “miêu tả cho hay, cho chân thật cho hùng hồn” những đề tài phong phú của hiện thực cách mạng, phải chú ý nêu gương “ Người tốt, viếc tốt”, uốn nắn và phê bình cái xấu. Nhà văn phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề. Hình thức của tác phẩm phải trong sáng, hấp dẫn, ngôn từ phải chọn lọc, bảo đảm sự trong sáng của tiếng Việt.
- Hồ Chi Minh đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức và tiếp nhận văn chương. Văn chương trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ. Người nêu kinh nghiệm chung cho hoạt động báo trí và văn chương, mỗi người khi cầm bút cần xác định rõ: Viết cho ai? (Đối tượng), Viết để làm gì? (Mục đích), Viết cái gì? (Nội dung) và Viết như thế nào? (Hình thức).
ĐỀ CUONG ÔN TẬP PHẦN VĂN HỌC VIỆT NAM HỌC KÌ I ( LÓP 12) Câu 1.. Quan điểm sáng tác văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh -Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng. Người đã xác định vị trí và vai trò to lớn của nghệ sĩ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển xã hội. Tinh thần đó đã được Người nói lên trong bài thơ “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi”: “Nay ở trong thơ nên có thép Nhà thơ cũng phải biết xung phong” Chất thép ở đây chính là xu hướng cách mạng và tiến bộ về tư tưởng là cảm hứng đấu tranh xã hội tích cực của thơ ca. Quan điểm của Hồ Chí minh là sự tiếp thụ, kế thừa quan điểm dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu trong truyền thống dân tộc và được nâng cao trong thời đại cách mạng vô sản. -Hồ Chí Minh luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật. Người yêu cầu văn nghệ sĩ phải “miêu tả cho hay, cho chân thật cho hùng hồn” những đề tài phong phú của hiện thực cách mạng, phải chú ý nêu gương “ Người tốt, viếc tốt”, uốn nắn và phê bình cái xấu. Nhà văn phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề. Hình thức của tác phẩm phải trong sáng, hấp dẫn, ngôn từ phải chọn lọc, bảo đảm sự trong sáng của tiếng Việt. - Hồ Chi Minh đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức và tiếp nhận văn chương. Văn chương trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ. Người nêu kinh nghiệm chung cho hoạt động báo trí và văn chương, mỗi người khi cầm bút cần xác định rõ: Viết cho ai? (Đối tượng), Viết để làm gì? (Mục đích), Viết cái gì? (Nội dung) và Viết như thế nào? (Hình thức). Câu 2: Sự nghiệp văn học Hồ Chí Minh 1.Văn chính luận: - Mục đích: được viết nhằm tấn công trực diện kẻ thù hoặc thực hiện những nhiệm vụ cách mạng qua những chặng đường lịch sử. - Tác phẩm tiêu biểu: + Các bài báo. + Bản án chế độ thực dân Pháp. + Tuyên ngôn Độc lập. + Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. + Không có gì quý hơn độc lập tự do + Di chúc. - Đặc điểm: giàu chất trí tuệ và tính luận chiến, suốt ½ thế kỉ tấn công trực diện kẻ thù bằng sức mạnh và ngòi bút. . Mạch văn sắc sảo,thuyết phục. 2. Truyện và kí: - Tác phẩm tiêu biểu: Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Đồng tâm nhất trí, Vi hành, Những trò lố hay là Va ren và Phan Bội Châu, Con rùa, Giấc ngủ 10 năm, Nhật kí chìm tàu - Mục đích: Dựa vào sự thật tai nghe mắt thấy và cả hư cấu nghệ thuật để vạch trần tội ác, bản chất tàn bạo xảo trá của thực dân Pháp và tay sai, đồn thời đề cao tấm gương đấu tranh yêu nước của nhân dân. - Đặc điểm: + Nội dung cô đọng, cốt truyện sáng tạo, kết cấu độc đáo. + Mỗi tác phẩm đều có tư tưởng riêng, hấp dẫn, sáng tỏ, ý tưởng thâm thuý,kín đáo, chất trí tuệ toả trong hình tượng và phong cách giàu tính hiện đại. 3. Thơ ca - Là lĩnh vực nổi bật nhất trong sáng tạo văn chương Hồ Chí Minh - Tác phẩm chính: + Nhật kí trong tù: 133 bài. Đây là tập thơ tiêu biểu nhất trong di sản thơ ca HCM. , sáng tác khi người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam 1942-1943. Nội dung : phê phán bộ mặt nhà tù Tưởng Giới Thạch và xã hội Trung Quốc thời đó, là bức chân dung tự họa thể hiện rõ vẻ đẹp tâm hồn HCM. Nghệ thuật : sắc thái cổ điển ( bút pháp chấm phá ước lệ, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật), tinh thần thời đại ( hình tượng thơ luôn có sự vận động)+ Thơ Hồ Chí Minh: 86 bài. + Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh: 36 bài. - Nội dung: + Thể hiện lòng yêu thương con người sâu nặng, khát vọng đấu tranh cho độc lập dân tộc. + Ca ngợi thiên nhiên hùng vĩ, phản ánh thời kì hoạt động bí mật, gian khổ nhưng cũng rất lạc quan, hào hùng. Câu 3 : Giới thiệu về Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh - Văn chính luận: Tư duy sắc sảo, giàu tri thức văn hoá, gắn lí luận với thực tiễn, vận dụng có hiệu quả nhiều phương thức biểu hiện. Những sáng tác VH của Hồ Chí Minh đều có sự thống nhất giữa cổ điển và hiện đại, giữa chính trị và nghệ thuật - Truyện và kí: Chủ động, sáng tạo, chân thực tạo không khí gần gũi. Giọng điệu châm biếm, sắc sảo, thâm thuý tinh tế, hoà quyện giữa chất trí tuệ và chất hiện đại. - Thơ ca: Hàm súc, uyên thâm, đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật, vận dụng nhiều thể loại, phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng. Câu 4: Hoàn cảnh ra đời của “Tuyên ngôn Độc lập” (NAQ-HCM) -Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc. Phát xít Nhật, kẻ đang chiếm đóng nước ta lúc bấy giờ đã đầu hàng Đồng minh. - 19/8/1945 chính quyền ở thủ đô ở Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 23 tháng 8 tại Huế vua Baoe Đại thoái vị. Ngày 25 tháng 8 , gần 1 triệu đồng bào Sài Gòn-Chợ Lớn quật khởi đứnglên giành chính quyền. Chỉ không đầy 10 ngày tổng khởi nghĩa và cách mạng tháng 8 thành công.. -26-08-1945, Chủ tịch HCM từ Việt Bắc về thủ đô HN tại căn nhà số 48 ,Hàng Ngang người đã soạn thảo “Tuyên ngôn Độc lập” -2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Người thay mặt chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam DCCH. -Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son lịch sử mở ra kỉ nguyên Độc lập – Tự do trên đất nước ta. -Tuyên ngôn là một tác phẩm chính luận đặc sắc có sự mạnh và tính thuyết phục, thể hiện ở cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn, đầy cảm xúc. Câu 5: Nêu đối tượng, mục đích hướng tới của bản “Tuyên ngôn Độc lập”? · Đối tượng: -Đồng bào cả nước. -Nhân dân thế giới. -Đặc biệt là thực dân Pháp đang lăm le tái xâm lược nước ta. · Mục đích: (Khẳng bác thể) -Khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam -Bác bỏ những luận điệu xảo trá của Pháp và Mĩ trước dư luận Quốc tế -Thể hiện ý chí gang thép của người Việt Nam, quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc bằng mọi giá. Câu 6: Bác đã vạch trần luận điệu của thực dân Pháp như thế nào qua Tuyên ngôn Độc lập 1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập - Khẳng định quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là những quyền không ai có thể xâm phạm đượci. - Hồ Chủ tịch đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, trước hết là để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại, sau nữa là “suy rộng ra” nhằm nêu cao một lý tưởng về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của các dân tộc trên thế giới. - Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ. + Bác nêu chân lý phổ biến của mọi dân tộc chứ ko chỉ riêng của Pháp Mĩ à tạo tính khách quan và cơ sở pháp lí cho lí lẽ của mình. +Bác đã dùng một phương pháp luận rất hiệu quả “Gậy ông đập lưng ông”: bác bỏ luận điệu của đối phương không gì đích đáng hơn và thú vị hơn là dùng lời lẽ của chính họ để phủ định họ. + Cách làm này còn thể hiện niềm tự hào dân tộc vì Bác đã đặt 3 bản tuyên ngôn ngang hàng với nhau. + Phát triển quyền lợi con người trong 2 bản tuyên ngôn của P&M thành quyền lợi dân tộc. Về lí lẽ, con người bao giờ cũng tồn tại trong một dân tộc cụ thể nên vấn đề con người, xét đền cũng là vấn đề dân tộc. Về thực tế, dân tộc VN đang bị đe dọa bởi các lực lượng thù địch nên vế đề dân tộc đang là một vấn đề bức thiết đồi với người VN lúc ấy đồng thời cũng là mong mỏi lớn nhất của cuộc đời bác. - Cách mở bài rất hay, hùng hồn trang nghiêm. Người không chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta, mà còn tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến 2 vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, nhất là các nước trong phe Đồng minh, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc địa của Đờ Gôn và bọn thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng. 2.Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp. - Với những dẫn chứng đa dạng, phong phú vốn là những sự thật hiển nhiên, Bác đã buộc tội kẻ thù rất hùng hồn, đanh thép qua những phương diện cơ bản: KT, CT, VH, Ngoại giao bằng phương pháp tương phản đầy sức thuyết phục. Cái hay của pp tương phản là Bác không cần nói ra mà bản chất xấu xa của thực dân Pháp cứ lồ lộ hiện ra. - Năm tội ác về chính trị: 1- tước đoạt tự do dân chủ, 2- luật pháp dã man, chia để trị, 3- chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta, 4- ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân, 5- đầu độc bằng rượu cồn, thuốc phiện. - Năm tội ác lớn về kinh tế: 1- bóc lột tước đoạt, 2- độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng, 3- sưu thuế nặng nề, vô lý đã bần cùng nhân dân ta, 4- đè nén khống chế các nhà tư sản ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân ta, 5- gây ra thảm họa làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói năm 1945. - Chúng lên tiếng bảo hộ Việt Nam những thực tế trong vòng 5 năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã “bán nước ta 2 lần cho Nhật”. - Chúng rêu rao tự do bình đẳng nhưng thực tế lại cướp nước ta, áp bức đồng bào ta, dìm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu.Thẳng tay khủng bố Việt Minh; “thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”. - Chúng khoe công khai hóa VN nhưng thực tế lại đầu độc dân ta bằng chính sách ngu dân, rượu cồn, thuốc phiện. - Chúng tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng, nay phải trở về tay chúng nhưng từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật hàng Đồng minh. à Như vậy. chúng ta đã lấy lại VN từ tay Nhật chứ ko phải từ tay Pháp. Luận điểm này vô cùng quan trọng về mặt pháp lí dẫn tới sự phủ nhận triệt đề mọi đặc quyền, đặc lợi của thực dân Pháp ở VN. ð Hệ thống lí lẽ và dẫn chứng ở trên đã vạch ra một cách sâu sắc bản chất của thực dân Pháp: giả dối, phản trắc, lọc lừa, có tội chứ không có công với người VN. Câu 7: Lời tuyên bố độc lập trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” có giá trị như thế nào ? · Đối với kẻ thù: - Thoát li hẳn với thực dân Pháp - Xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp kí với VN - Xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên VN ð 3 lời tuyên bố với mức độ tăng dần, từ ngữ hết sức chặt chẽ · Đối với nhân dân Việt Nam: - Họ xứng đáng được hưởng độc lập, tự do + Dũng cảm chiến đầu và hy sinh biết bao xương máu chiến đấu cho nền độc lập tự do. Sự khẳng định rất hùng hồn thể hiện niềm tự hào dân tộc bằng một loạt phép điệp từ đầy tính hùng biện: “Một dân tộc đã gan góc” (điệp 2 lần), “dân tộc đó phải được”(điệp 2 lần). + Đứng về phe đồng minh chống phát xít + Nêu cao lá cờ bác ái - Nền độc lập ấy được bảo vệ bằng ý chí lớn của người VN. Bác đã khẳng định “Toàn thể dân tộc VNnền tự do độc ... ân, dũng cảm đấu tranh với nền chính trị độc tài, nền nghệ thuật già nua, bảo thủ. - Lor ca là một hịên tượng xuất chúng có sức ảnh hưởng to lớn tới nghệ thuật và chính trị của Tây Ban Nha lúc bấy giờ, Lor-ca đã nồng nhiệt cổ vũ cho nhân dân đấu tranh đòi quyền sống chính đáng, đồng thời khởi xướng thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân nghệ thuật. - Là một sự đột phá cho văn minh nhân loạiÞ Thanh Thảo đã từng viết : « Lorca là nhà thơ của những giấc mơ, của những linh cảm nhoi nhói, một nhà thơ có thể biến những giấc mơ thành nhịp điệu, có thể biến những linh cảm thành ngôn từ. Lorca siêu thực một cách tự nhiên, và hiện thực một cách tự nhiên » (Lorca trong tôi – Mãi mãi là bí mật, NXB Lao động, 2004). Câu 18: Hình tượng sông Đà qua sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân: -Con sông Đà hùng vĩ, dài trên năm trăm cây số, hiểm trở với hàng trăm thác ghềnh mang những cái tên cổ sơ, xa lạ (Hát Loóng, thác Giăng, Hót Gió, Mó Tôm). Ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè!”. Âm thanh tiếng thác nghe ghê rợn như tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, tre nứa bị cháy. Sông Đà có nhiều thạch trận, nhiều cửa tử ít cửa sinh, với những thần sông, thần đá trấn giữ “nhổm cả dậy vồ lấy thuyền”, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chổ hiểm chực “đòi ăn chết cái thuyền”. Luồng nước vô sở bất chí, dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đầy thác ghềnh, thạch trận. Những ông tướng đá mặt xanh lè đáng sợ. Nhịp điệu câu văn dồn dập. Từ tượng thanh, từ tượng hình, những ẩn dụ so sánh, tiếng nói đời thường sông nước, ngôn từ nhà bình, thể thao thể dục, điện ảnh được ông vận dụng để miêu tả thác ghềnh, gây ấn tượng về sự dữ dội, hiểm trở, hùng vĩ của sông Đà. -Sông Đà còn mang vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc, ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ”. Nguyễn Tuân gọi sông Đà là một cố nhân. Cảnh ven sông ở thượng nguồn lặng tờ. Có bầy hươu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương. Cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Có đoạn, có khúc sông: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử - Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Một về cố thi, một câu đồng dao, một câu thơ Đường, một vài câu thơ của Tản Đà của Nguyễn Quang Bích được Nguyễn Tuân lựa chọn đưa vào, cho thấy ông là một cây bút rất sành điệu, tài hoa dẫn dắt người đọc chiếm lĩnh vẻ đẹp sông Đà với tình yêu sông núi, giang sơn. Câu 20 : Hình tượng người lái đò sông Đà qua sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân: -Ông lão lái đò, đơn độc trên chiếc đò nhỏ, xông pha vào một trận đồ bát quái của sông Đà . Những con sống dồn dập lao tới, xiết mạnh qua những tảng dá nửa nôỉ nửa chìm sôi réo lên , bắn tung bọt nước vào con đò nhỏ , nhưng con đò với người lái đò cùng những động tác nhanh nhẹn , chính xác đến từng li từng tí đã khéo léo chèo chống luồn lách qua từng tảng đá ngầm , từng con nước xiết , từng cái hút mà nếu lỡ lọt vào là lập tức bị cuốn thẳng ngay vào lòng sông rồi bị bao khối đá , bao luồng nước xâu xé để rồi lúc nổi nên phía hạ lưu chỉ còn những mảnh võ cũng với một nỗi khiếp sợ bao trùm lên dòng sông . -Đơn phương độc mã chiến đấu với thủy quái Đà Giang , ông lái đò không những không cảm thấy mệt mỏi mà ông lại càng minh mẫn, càng hào hứng , thích thú và khoái chí mỗi khi kẻ thù của mình bị rớt lại đằng sau .. Nhưng sông Đà vẫn chưa tung hết thủ đoạn , nó ra sức chảy xiết , cho nổi nên một trận điạ đá chìm nổi tiềm ẩn bao mưu đồ thâm độc .Nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh , bằng những động tác thuần thục , với suy nghĩ quyết đoán, quả quyết , ông dần lấy thế chủ động và từ từ tiến vào trận đồ bát quái ngũ hành _đá ngầm mà con sông Đà dã giắng sẵn chỉ chừo ông vào là ra tay hạ thủ -Lúc này không thể dùng sức đấu tay đôi như trước nữa mà bây giờ nếu không có chiến thuật đối phó kịp thời thì sẽ thua trận và sẽ bị con thủy quái Đà Giang nuốt chửng . Một lần nữa , ông lái đò lại thể hiện cho con thủy quái kia thấy ông là người không dễ gì chịu khuất phục . Con sông réo lên ùng ục , hiện lên ba cưả đá . Trong ba cửa thạch môn đó chỉ có duy nhất một của sinh, còn lại hai cửa tử kia lỡ họa họa đi vào là sẽ vĩnh viên không còn lối ra .Thế nhưng thật kỳ là , ông lái đò luồn lách một hồi rồi đi thẳng vào cửa sinh trước sự tức giận cảu thủy quái . Thủy quái càng tức giận lồng lên khiến mặt sông đỏ ngầu sủi bọt , nố tiếp tục dâng đá tăng sóng . Không thể ẩn nấp tấn công du kích như trước nữa , lần này nó hung hãn bao vậy thập diện rồi từ bốn phương tám hướng ầm lên , tổng tiến công lao tới con đò như vũ bão . Không một chút run sợ , ông tiếp tục né đỡ , dùng chính mái chèo trong tay mình để làm vũ khí chống lại và nhanh trí tấn công mạnh vào yếu điểm của thủy quái , dần dần đánh bại mọi sự tấn công của nó. Thủy quái bị thất thế vội lùi lại đằng sau nhường bước cho ông lái đò . Ông quả là thông minh mưu trí , và rất có chiến lược . -Con đò dần trôi qua thác, con thủy quái vẫn chưa chịu bỏ cuộc. Nó liền dùng biện pháp cuối cùng , ra sức van vỉ để cầu xin lòng thương hại nhằm khiến ông laõ chủ quan, lúc thì lại rống lên để mong cho ông lão lo lắng, sợ hãi, lúc lại ghào thét khiến ông căm tức mà hiếu chiến , bỏ quên lí trí .Chỉ cần ông sa vào một trong ba điều trên là thủy quái lập sẽ đánh úp ông ngay lập tức, và ông sẽ thua trận .Nhưng kài, ông vẫn vượt qua được.Thục sự ông có một tinh thần rất vững vàng , một tinh thần thép Lúc đó ông ẵhng còn vừua chèo vừa nói chuyện cá tôm , như chẳng để ý gì đến con thủy quái cả .Kết quả trận chiến , con thủy quái bại trận lầm lũi nhìn ông từ từ dạo đò đi qua . Nguyễn Tuân thật tài tình . Không chỉ dùng biện pháp văn học, ông còn sử dụng cả những thủ pháp nghệ thuật ở mọi lĩnh vức khác nhau khiến giá trị tạo hình cảu tác phẩm lại được nâng lên vượt bậc , và đã đặc tả rất thành công hình tượng người lái đò sông Đà Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, ông lão lái đò không những chỉ là một vị tướng quân dũng mãnh lao vào trận chiến ác lịêt cùng thủy quái sông Đà để chiến đấu và chiến thắng mà ông còn là một nghệ sĩ , một nghệ nhân của nghề chèo đò .Những động tác chèo đò thuần thục , nhuần nhuyễn của ông khiến ai cũng ngưỡng mộ. Mỗi lần ông chèo đờ vượt thác lại là một lần trình diễn nghệ thuật trên sân khấu sông Đà .Ông đúng là hiện thân cho ước mơ, khát vọng chinh phục thiên nhiên của con người . hình ảnh người lái đò sông Đà là bức chấn dung của người lao động bình thường nhưng đó lại chính là vẻ đẹp của cuộc sống, và cũng là vẻ đẹp của con người trong cuộc mưu sinh. Câu 20: Vài nét về phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí, Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Câu 21: Hình ảnh sông Hương qua cái nhìn đa chiều của Hoàng Phủ Ngọc Tường 1. Vẻ đẹp sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên : Khác với nhiều con sông “sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Nghĩa là sông Hương gắn liền với Huế.Điểm nhìn nghệ thuật của bài thơ là sông Hương + Sông Hương ở đầu nguồn (thượng nguồn):Tác giả miêu tả sông Hương ở đầu nguồn với sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng dịu dàng và say đắm.--> “Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Dòng sông đã được thổi bằng ngọn gió tâm hồn dào dạt nhạy cảm, liên tưởng tự do để càng mạnh mẽ hơn, đắm say hơn ở địa phận thượng nguồn. + Sông Hương ở đồng bằng: Sông Hương được thay đổi về tính cách: “Sông như chế ngự được bản năng của người con gái” để “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” Sông Hương lại có vẻ đẹp trầm mặc chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn. -> Đó là vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ, có vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua những bãi bờ xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long, có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” khi nó rời xa thành phố để đi qua những bờ tre, lũy trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ. + Đoạn tả sông Hương khi đi qua thành phố đã gây được nhiều ấn tượng: -Đấy là hình ảnh chiếc cầu bắc qua dòng sông Hương: “Chiếc cầu trắng in ngấn trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non” -Nhà văn như thổi linh hồn vào cảnh vật: “đường cong ấy làm cho dòng sông như mềm hẳn đi, như một tiếng vâng không nói của tình yêu”, “Tôi nhớ sông Hương, quý điệu chảy lững lờ của nó khi ngang qua thành phố”. -Dường như sông Hương không muốn xa thành phố: “Rồi như sực nhớ lại một điều gì đó chưa kịp nói. Nó đột ngột đổi dòng rẽ ngặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố ở góc Bao Vinhkhúc quanh này thật bất ngờĐấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. - Sông Hương trở lại “để nói một lời thề trước khi về biển cả”.Tác giả liên hệ “Lời thề ấy vang vọngkhắp khu vực sông Hương thành giọng hò dân gian, ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. 2.Vẻ đẹp sông Hương được khám phá dưới góc độ văn hóa : - Tác giả cho có một dòng thi ca về sông Hương. Đó là dòng thơ không lặp lại mình + Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuyaQuả đúng vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành trên mặt nước của dòng sông này”. +Tác giả tưởng tượng: “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.Phải có độ nhạy cảm về thẩm âm, hiểu biết về âm nhạc của xứ Huế, tác giả mới có sự liên tưởng này. + Với ngòi bút tài hoa cộng với sự rung cảm mạnh mẽ, HPNT nhớ tới Nguyễn Du; “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu.Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. -Vẻ đẹp sông Hương gắn liền với những sự kiện lịch sử: + Tên của dòng sông Hương được ghi trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi; “Nó được ghi là linh giang” + Dòng sông ấy là điểm tựa, bảo vệ biên cương thời kì Đại Việt. + Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, gắn liền với tên tuổi của người anh hùng Nguyễn Huệ. + Nó đọng lại đến bầm da, tím máu “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX”. + Nó đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. +Nó chứng kiến cuộc nổi dậy tổng tiến công tết Mậu Thân 1968. Sông Hương đã gắn liền với lịch sử của Huế, của dân tộc. =>Bài bút ký kết thúc bằng cách lí giải tên của dòng sông; sông Hương, sông thơm. Cách lí giải bằng một huyền thoại: Người làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm. Ở đây kể lại rằng vì yêu quí con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi.Huyền thoại ấy đã trả lời câu hỏi : ai đã đặt tên cho dòng sông?
Tài liệu đính kèm: