Dàn ý một sô đề văn nghị luận xã hội lớp 12

Dàn ý một sô đề văn nghị luận xã hội lớp 12

ĐỀ 1

“ Tình thương là hạnh phúc của con người”

DÀN Ý

1. GIẢI THÍCH KHÁI NIỆM ( TỪ NGỮ)

 - Tình thương: là khái niệm chỉ mọi phẩm chất tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn của con người .Đó là “tình cảm thương yêu, chia sẻ, đùm bọc một cách thắm thiết “.

 ( theo Từ điển tiếng Việt, Trung Tâm Từ điển học Việtlex- NXB Đà Nẳng , 2007, tr 1543).

 - Hạnh phúc: là khái niệm chỉ “Trang thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện” ( Theo Từ điển Tiếng Việt, sdd tr. 655)

 - Tình thương là hạnh phúc củ con người là cách nói định nghĩa về tình thương: Tình cảm yêu thương chia sẻ, đùm bọc thắm thiết của con người sẽ đem đến cho con người niềm sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện.Thực chất đây là cách diễn đạt cô dộng về ý nghĩa, tác dụng của tình thương đối với đời sống con người.

 

doc 10 trang Người đăng hien301 Lượt xem 6765Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Dàn ý một sô đề văn nghị luận xã hội lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DÀN Ý MỘT SÔ ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XH LỚP 12
ĐỀ 1
“ Tình thương là hạnh phúc của con người”
DÀN Ý
1. GIẢI THÍCH KHÁI NIỆM ( TỪ NGỮ)
 - Tình thương: là khái niệm chỉ mọi phẩm chất tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn của con người .Đó là “tình cảm thương yêu, chia sẻ, đùm bọc một cách thắm thiết “.
 ( theo Từ điển tiếng Việt, Trung Tâm Từ điển học Việtlex- NXB Đà Nẳng , 2007, tr 1543).
 - Hạnh phúc: là khái niệm chỉ “Trang thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện” ( Theo Từ điển Tiếng Việt, sdd tr. 655)
 - Tình thương là hạnh phúc củ con người là cách nói định nghĩa về tình thương: Tình cảm yêu thương chia sẻ, đùm bọc thắm thiết của con người sẽ đem đến cho con người niềm sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện.Thực chất đây là cách diễn đạt cô dộng về ý nghĩa, tác dụng của tình thương đối với đời sống con người.
2.PHÂN TÍCH
 - Tình thương giữa những người có quan hệ ruột thịt, thân thích:
 + tình yêu thương, sự chăm sóc, sự hy sinh tự nhiên tự nguyện của ông bà cha mẹ dành cho con cháu. 
 + Sự nhường nhịn giúp đỡ ..giữa anh chị em .
 + Sự đùm bọc cưu mang giữa những người trong họ hàng 
 + Sự kính trọng, biết ơn , thái độ quan tâm, phụng dưỡng  của con cháu đối với ông bà, cha mẹ.
- Tình thương yêu dành cho đồng bào, đồng loại:
 + Thái độ đồng cảm, xót thương chân thành, sâu sắc dành cho những con người có số phận đau khổ, bất hạnh : những đứa trẻ mồ côi, những người già cô đơn, những con người bị hắt hủi, những người tật nguyền, những người sống trong nghèo khổ 
 + Thái độ quan tâm, hành động sẳn sàng chia sẻ về vật chất cho những con người sống khó khăn, thiếu thốn cần sự giúp đở ( ủng hộ tiền, đồ dung sinh hoạt, tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện do các cấp, các ngành phát động như hiến máu nhân đạo .)
 + Tích cực lên án, đấu tranh chống lại những thế lực đày đọa, bóc lột ngược đãi con người.
3. BÌNH LUẬN, ĐÁNH GIÁ
- Ý nghĩa, tác dụng của tình thương trong cuộc sống:
 + Tình thương yêu sẽ là ngọn Lửa sưởi ấm tân hồn những con người con người cô đơn, đau khổ, bất hạnh truyền cho họ sức mạnh, nghị lực để vượt lên hoàn cảnh.
 + Tình thương tạo sức mạnh cảm hóa kì diệu đối với những người lầm đường lạc lối, thâm chí là kẻ thù.
 + Được sống trong tình yêu thương là niềm hạnh phúc lớn, là tiền đề để con người trở nên lương thiện: những đứa trẻ được nuôi dưỡng, lớn lên trong tình thương sẽ có tâm hồn nhạy cảm với những buồn vui, biết yêu thương, quan tâm đến người khac ở quanh mình. Trái lại những đứa trẻ bị đối xử thô bạo, bị hắt hủi, bị ruồng bỏ sẽ là bất hạnh khôn cùng
 + Con người hạnh phúc vì được sống khi bị cái chết rình rập, được ăn khi đói, được đầy đủ khi đang nghèo khó, được hy vọng khi đang tuyệt vọng, được thành công sau khi thất bại Nhưng niềm hạnh phúc lớn lao nhất vẫn là được sống trong tình thương.
 + Không chỉ người được nhận tình thương mới hạnh phúc mà cả người trao gởi tình thương cũng cũng được hạnh phúc vì hạnh phúc không phải chỉ là nhận mà còn là cho.
ĐỀ 2
“Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”..
Ý kiến trên của M. Xi- xê – rông (nhà triết học La Mã cổ đại) gợi cho anh (chị) những suy nghị gì về việc tu dưỡng và học tập của bản thân?
DÀN Ý
1.GIẢI THÍCH KHÁI NIỆM (TỪ NGỮ)
 - Đức hạnh là khái niệm biểu đạt “đạo đức và tính nết tốt, thường dùng để nói về phụ nữ” (theo Từ điển Tiếng Việt, sđd, tr 558). Trong câu nói của Xi-xê- rông nó được dùng để chỉ đạo đức và tính nết tốt của con người nói chung.
 - Hành động: Là “làm những việc những việc cụ thể nào đó, ít nhiều quan trọng một cách có ý thức, có mục đích” ( sđd tr 653).
- Nói “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động” nghĩa là cái làm nên giá trị của một người là những việc làm có ý thức cụ thể - những việc làm xuất phát từ những mục đích tốt đẹp khác nhau, gắn với những quy mô lớn nhỏ khác nhau.
- Nguyên nhân: Là do suy nghĩ, nhận thức biểu hiện bản chất, giá trị con người ở dạng tìêm ẩn, trừu tượng khó nhận biết. Lời nói tuy cũng biểu hiện trực tiếp bản chất nhung không có độ tin cậy cao: “ Đừng nghe anh ta nói, hãy xem anh ta làm”.Chỉ hành động mới biểu hiện rõ nhất, có sức thuyết phục hơn cả mọi phẩm chất của đức hạnh – giá trị bản chất của con người. Hec-béc (Anh) cũng khẳng định: “Câu trả lời ngắn nhất là hành động”.
2. PHÂN TÍCH. LÝ GIẢI
Cau nói của M. Xi-xê-rông thể hiện một quan niệm đúng đắn về một trong những thước đo tin cậy về bản chất tốt đẹp của con người là hành động.
a) Đức hạnh trong lĩnh vực tu dưỡng, học tập mà bản thân cần trau dồi là gì? 
 Với tuổi trẻ học đường, đặt trong bối cảnh xã hội, xu thế thời đại, đức hạnh cần trau dồi trong quá trình tu dưỡng, học tập là “ Rèn đức- Luyện tài vì ngày mai lập nghiệp”. Cụ thể:
 + Xác định được lý tưởng, mục đích cuộc sống mục đích cao đẹp : góp phần tích cực để xây dựng đất nước “ Dân giàu- nước mạnh- xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
 + Tự giác rèn luyện thể chất, chăm lo sức khỏe bản thân.
 + Xây dựng cho mình một lối sống đẹp : Nhân ái, năng động, tự tin, có trách nhiệm với với tương lai tốt đẹp của chính mình , của đất nước.
 + Có ý chí quyết tâm vượt khó, say mê, sáng tạo, xác định được một phương pháp học tập khoa học để tích lũy, làm giàu tri thức ; biết vân dụng hiệu quả những tri thức, hiểu biết vào cuộc sống 
 b) Từ những phẩm chất đạo đức cần thiết ấy, bản thân cần hành động ra sao để phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức mà mình theo đuổi ?
 Mọi người cần có hành động cụ thể :
 - Quan tâm, chăm sóc, những người thân trong công việc gia đình .
 - Tham gia một cách tự nguyện, tự giác, nhiệt tình các hoạt động xã hội, từ thiện được tổ chức, phát động ở địa phương cư trú hay nơi công tác học tập.
 - Đoạn tuyệt, tránh xa, tích cực đấu tranh chống lại những tệ nạn xã hội có sức cám dỗ tuổi trẻ : nghiện hút trộm cắp, đua xevà những thói quen xấu mà tuổi trẻ thường mắc phải: Sống tự do, buông thả, đua đòi, lười biếng, lề mề, cẩu thả, vô tâm, ích kỷ, chỉ biết hưởng thụ mà không biết nghĩ đến trách nhiệm, những hành vi, lối sống ứng xữ thiếu văn hóa nơi công cộng 
c.Trên thực tế bản thân đã thực hiện được điều gì , có khó khăn gì khi biến nhận thức thành hành động? 
 - Đây là nội dung người viết cần thể hiện chân thành những suy nghĩ của bản thân , thể hiện khả năng tự đánh giá về chính mình . (có thể xoáy vào những nội dung cơ bản theo gợi ý sau : Đã xác định cho mình lý tưởng, mục đích sống đúng đắn chưa ? Có kiên trì theo lý tưởng, mục đích đó không? trong cuộc sống mình có cần thiết phát huy, có gì cần khắc phục, thay đổi? Cần từ bỏ dứt khoát những thói quen xấu nào?
 - Trong quá trình chuyển nhận thức thành hành động, thấy xuất hiện những khó khăn, trở ngại : lối tư duy còn máy móc, giáo điều ; tinh thần chưa thật quyết tâm ; thiếu bản lĩnh , tự chgu3 hay bị chi phối bởi dư luận; tâm lý mặc cảm, tư ti (tùy từng cá nhân mà xác định trở ngại lớn nhất của bản thân là gì?)
3. BÌNH LUẬN, ĐÁNH GIÁ
-Bài học có ý nghĩa lớn nhất mà bản thân đúc kết được từ câu nói của Xi – xê- rông. Mỗi con người có cách tự bộc lộ, tự khẳng định mình khác nhau song cách tự khẳng định, tự bộc lộ mình ngắn nhất, thông qua hành động và bằng hành động .
- Và hành động cũng là thước đo tin cậy nhất để nhận biết, đánh giá bản chất, giá trị tốt đẹp nhất của con người. Đó là một chân lý.
ĐỂ 3
Hãy phát biểu ý kiến của mình về mục đích học tập do UNESCO đề xướng: 
“ Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. 
DÀN Ý
1.GIẢI THÍCH KHÁI NIỆM (TỪ NGỮ)
 - Học để biết:
+ Học là quá trình tiếp thu tri thức từ sách vở, trường học ; từ thực tế cuộc sống – trường đời.
+ Học để biết là mục đích đầu tiên của việc học. Biết là tiếp thu, mở mang, có thêm kiến thức về tự nhiên, xã hội, con người. Con người từ chưa biết đến biết. Từ biết ít đến biết nhiều, từ biết sơ sài đến biết sâu sắc, từ chổ biết một lĩnh vực mà có hiêu biết về nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau
+ Nhờ học, con người có những hiểu biết, phong phú, đa dạng về mọi lĩnh vực của cuộc sống, xã hội; tự làm giàu kho tri thức của mình trong các lỉnh vực tạo được vốn sống sâu sắc.
+ Điều có ý nghĩa quan trọng hơn là qua những tri thức đó, con người có khả năng hiểu biết bản chất về con người và tự nhận thức về bàn thân. Nói cách khác nhờ học con người có thể “ biết người”- “biết mình”
- Học để làm :
+ Học để làm là mục đích tiếp theo của việc học theo đề xướng của UNESCO. Làm là vận dụng kiến thức, hiểu biết có được vào thực tế cuộc sống. Đây là nội dung thể hiện mục đích thiết thự nhất của việc học : “ Học đi đôi với hành”.
+ Làm trước hết để tạo ra những giá trị vật chất, tinh thân cụ thể phục vụ nhu cầu sống của bản thân và góp phân tạo ra của cải cho xã hội .
+ Học mà không làm thì kiến thức có được không tạo nên những giá trị vật chất, tinh thần mới cho bản thân và cho xã hội .
- Học để chung sống:
+ Học để chung sống là một trong những mục đích qua trong nhất của việc học. Chung sống là khả năng hòa nhập xã hội, kỷ năng giao tiếp, ứng xử để tự thích nghi với mọi môi trường sống, các quan hệ xã hội phức tạp của con người trong quá trình sống. Đây là hệ quả tất yếu của việc biết, làm .
+ Bởi lẽ, “con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Bản chất, giá trị, nhân cách con người được hình thành, nuôi dưỡng, khẳng định, thử thách trong các mối quan hệ đó .
- Học để tự khẳng định mình: 
+ Học để tự khẳng định mình là mục đích sau cùng của việc học trong đề xướng của UNESCO. Tự khẳng định mình là tạo lập được vị trí, chổ đứng vững vàng trong xã hội, thể hiện sự tồn tại có ý nghĩa của cá nhân mình trong cuộc đời. Mỗi con người chỉ có thể khẳng định mình khi có hiểu biết, có năng lực hành động, có khả năng chung sống .
+ Từ việc học, mỗi người sẽ có khẳng định tri thức mình tích lũy được; khẳng định khả năng lao động, sáng tạo; khẳng định nhân cách, phẩm chất 
2. BÌNH LUẬN, ĐÁNH GIÁ
- Nội dung đề xướng về mục đích học tập của UNESCO thật sự đúng đắn, đầy đủ, toàn diện.
- Mục đích học tập này đã thực sự đáp ứng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu đào tạo, giáo dục con ngưới trong thời đại ngày nay.Đây là mục đích học tập không phải chỉ dành riêng cho đối tượng học sinh, sinh viên mà còn dành cho tất cả những ai là người học.
 Vì thế, có thể coi đây là mục đích học tập chung có tính cách toàn cầu.
- Từ mục đích học tập đúng đắn này, mỗi người học cần thấy rõ những sai lầm trong nhận thức về việc học: học không có mục đích ; coi việc học là thực hiện nghĩa vụ nặng nề với người khác chứ không phải học vì mình; học vì bằng cấp; học vì thành tích ; học mà không có khả năng làm, không thể chung sống, không thể tự khẳng định mình ( hiện tượng học sinhTHPT không biết viết một lá đơn xin nghĩ học đúng quy cách; kỷ sư giỏi được đào tạo bài bản mà không chế tạo được những công cụ sản xuất trong nông nghiệp; có học vị, bằng cấp nhưng cách ứng xử thì vụng về, lối sống lại thiếu văn hóa...)
- Mục đích học tập giúp con người, xã hội điều chỉnh được nhận thức về thời gian học: Không chỉ học ở một chặng đời mà phải học suốt đời; nơi học: không chỉ học trong nhà trường mà cần phải học ngoài xã hội; điều chỉnh quan niệm về người dạy : Không chỉ là người truyền đạt tri thức mà còn dạy “làm người”, không chỉ học ở thầy mà còn học  ...  cái trở thành trẻ mồ côi, không nơi nương tựa, mất đi mái ấm ; cũng có những gia đình mất con do tai nạn giao thông mà sống những ngày còn lại của cuộc đời trong đau khổ, bất hạnh khôn cùng.
+ Xã hội cũng phải gánh chịu thiệt hại không kém: chi phí chữa bệnh cho người bị tai nạn giao thông, an ninh, trậ tự xã hội không ổn định. Những vụ tai nạn giao thông xảy ra với người nước ngoài đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến cách nhìn nhận của bạn bè quốc tế về Việt Nam. Thiện cảm, lòng tin của khách du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài đối với môi trường du lịch và đầu tư Việt Nam chắc chắn có thay đổi
+ Chỉ cần đọc một vài con số cụ thể sau chúng ta sẽ cảm thấy kinh hoàng: Theo thống kê của Cục Cảnh sát Giao thông Đường bộ- Đường sắt, chỉ trong ba tuần đầu tiên sau Tết Đinh Hợi (khoảng từ 17/2 đến 1/3), Trên địa bàn cả nước xảy ra khoảng 1090 vụ tai nạn, làm chết tới gần 800 người và bị thương hơn 1150 người. Tính trung bình mỗi ngày cả nước xảy ra tới 78 vụ tai nạn, hơn 57 người chết và hơn 82 người bị thương (theo giaothongvantai.com.vn).
+ Trong đó vấn đề dáng lo ngại nhất khi tham gia giao thông hiện nay: hiện tương vi phạm pháp luật trong thực hiện an toàn giao thông diễn ra thường xuyên mà chưa có giải pháp thực sự hiệu quả.
2. NGUYÊN NHÂN
- Những nguyên nhân cơ bản nào dẫn đến tai nạn giao thông ?
+ Chất lượng các công trình giao thông xuống cấp nghiêm trọng. Đầu tư của nhà nước cho xây dựng cơ bản trong giao thông chưa có tầm chiến lược, manh mún, chưa tập trung, giao thông ở trong các đô thị cũng nay lấp mai đào, đường phố lúc nào cũng như công trường 
+ Chất lương các phương tiện giao thông chưa được kiểm định, quản lý chặt chẽ.
+ Nhận thức, ý thức của người tham gia giao thông còn rất hạn chế: thiếu hiểu biết cơ bản về luật an toàn giao thông, đi xe không đội mũ bảo hiểm, không bằng lái, phóng nhanh vượt ẩu, lạng lách, đua xe tốc độ..
+ Việc ban hành các văn bản pháp quy về an toàn giao thông của các cấp quản lý chưa sát thực tế, chưa có tính khả thi: việc xử lý người vi phạm an toàn giao thông chưa nghiêm khắc, thậm chí người thi hành luật pháp cũng vi phạm pháp luật.
3. GIẢI PHÁP (hành động)
 Cần khẳng định khó có thể chấm dứt tai nạn giao thông nhưng hạn chế ở mức thấp nhất, “giảm thiểu” hiện tượng này hoàn toàn có thể. Đây là trách nhiệm của toàn xã hội, đặc biệt là của học sinh, sinh viên:
 - Trước hết, cần trang bị những hiểu biết cơ bản về luật an toàn giao thông.
 - Tự giác thực hiện trong quá trình tham gia giao thông.
 - Có trách nhiệm tuyên truyền với cộng đồng, người thân, vận động bạn bè, giáo dục các em nhỏ thực hiện đúng luật an toàn giao thông.
 - Tích cực đấu tranh, tố giác hiện tượng vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong thực hiện an toàn giao thông ở người tham gia giao thong, người quản lý về an toàn giao thông.
 - Nhiệt tình tham gia các hoạt động tình nguyện giữ trật tự an toàn giao thông nơi cư trú, học tập trong những giờ cao điểm
ĐỀ 5
 Hiện nay ở nước ta có nhiều cá nhân, gia đình, tổ chức thu nhận trẻ em cơ nhở, lang thang kiếm sống trong các thành phố, thị trấn về những mái ấm tình thương để nuôi dạy, giúp các em học tập, rèn luyện, vươn lên sống lành mạnh, tốt đẹp.
 Anh (chị) hãy bày tỏ suy nghĩ của mình về hiện tượng đó.
DÀN Ý
1. THỰC TRẠNG TRẺ EM LANG THANG, CƠ NHỠ
 - Trẻ em lang thang, cơ nhỡ là những trẻ ở lứa tuổi vị thanh niên bị mồ côi cả cha lẫn mẹ, không nơi nương tựa, bị bỏ rơi, do cha mẹ bất hòa, gia đình khó khăn hay một lý do nào đó mà không có người chăm sóc, nuôi dưỡng, sớm phải sống lang thang, tự lập.
 - Cuộc sống của trẻ em lang thang, cơ nhỡ phần lớn là đói rách, nghèo khổ, không được học hành đến nơi đến chốn, không được bao bọc, chở che trong vòng tay yêu thương của cha mẹ hay của người thân. Nhìn chung, đó là những trẻ em chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh bởi là trẻ thơ mà không có tuổi thơ.
- Trẻ em lang thang, cơ nhỡ đã, đang và sẽ đối mặt với nhiều thách thức: luôn bị đói nghèo, bệnh tật đe dọa; bị bóc lột sức lao động ; dễ bị kẻ xấu lạm dụng, lợi dụng làm việc phạm pháp ; dể bị tha hóa ; cuộc sống không ổn định ; tương lai mờ mịt, sống hôm nay không biết ngay mai sẽ ra sao..
2.HOẠT ĐỘNG GIÚP TRẺ EM LANG THANG, CƠ NHỞ
- Trên khắp cả nước, có nhiều tập thể, cá nhân tự nguyện chung tay giúp đỡ những trẻ em bất hạnh này:
+ Sư thầy Đàm Thích Lan ở chùa Bồ Đề ( quận Long Biên, Hà Nội) đón nhận 50 trẻ em bị bỏ rơi, cha mẹ bỏ nhau, cha mẹ nghiện ngập gửi nhà chùa nuôi rồi không trở lại, người già neo đơn. Hằng ngày, sư thầy dạy các trẻ những điều thiện theo giáo lý Phật, cho học văn hóa, dạy các em làm những công việc nhà chùa theo sức cũa mình.
+ Cô nhi viện Thánh An ( Giáo phận Bùi Chu, Xuân Trường, Nam Định) sẳn sàng tiếp nhận, nuôi dưỡng trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, trẻ bị khuyết tật như bại liệt, bị thần kinh, bị nhữn di chứng chất độc màu da cam không phân biệt lương – giáo. Cô nhi viện đã giúp các em học văn hóa, dạy nghề để hòa nhập cộng đồng. Từ năm 1993 đến nay đã nhận 201 trẻ mồ côi, bị bỏ rơi. Trong số đó, đã có 23 em được nhận làm con nuôi, 8 em đi học đại học, 9 em đang học THPT, 22 em đng học từ mẫu giáo đến THCS, 6 em đã trưởng thành đi làm ở Hà Nội, TP . Hồ Chí Minh
+ Mái ấm Diệu Giác ( phường Bình an, quận 2 TP. Hồ Chí Minh) có 17 bà mẹ ngày đêm túc trực, chăm lo cho 120 đứa con từ 4 ngày tuổi đến 18 tuổi. Các bà mẹ làm việc tất bật như một doanh nhân. Chỉ khác ở chổ, các doanh nhân thì có phúc lợi, lương bổng, còn đối với những người mẹ hiền làm việc suốt 24 giờ một ngày không lương bổng này thì niềm vui duy nhất là nhìn thấy các con khỏe mạnh, khôn lớn, con nào cũng ngoan ngoản lễ phép. Từ mái ấm tình thương này đã có 3 em học ĐH Giao thông – Vận tải TP. Hồ Chí Minh. 3 em đi làm ở nhà in chuẩn bị trở về dạy nghề cho các em nhỏ ở nhà.
+ Nhiều cá nhân, tập thể hảo tâm tuy không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em lang thang, cơ nhỡ nhưng luôn sẳn sang ủng hộ, quyên góp tiền, quần áo, sách vở, thuốc men cho những cá nhân và tập thể đang cưu mang những trẻ em bất hạnh. Đáng quan tâm là những cuộc vận động lớn như : Nhịp cầu trái tim, Nối vòng tay lớn  được tổ chức thường xuyên mỗi năm.
- Có thể khẳng định đây là một hoạt động có ý nghĩa xã hội lớn lao, mang tính nhân đạo sâu sắc. Nó góp phần giảm bớt những bất hạnh mà trẻ em lang thang, cơ nhỡ đang phải gánh chịu: trả lại cho các em cuộc sống hạnh phúc, nụ cười hồn nhiên thơ trẻ; giúp các em có môi trường lành mạnh để phát triển nhân cách, tạo cho cơ hội thuận lợi để sống tự lập khi bước vào cuộc sống ; giảm bớt nguy cơ tội phạm và tệ nạn xã hội.
3. BÌNH LUẬN, ĐÁNH GIÁ
- Khâm phục, cảm động trước tấm lòng nhân hậu và nghĩa cử cao đẹp của những cá nhân, tập thể đang nuôi dưỡng, ủng hộ, giúp đỡ trẻ em lang thang, cơ nhỡ. 
- Tình nguyện, tự giác tham gia các hoạt động giúp đở các trẻ em bất hạnh ở nơi cư trú, học tập hay công tác: quyên góp sách vở, đồ dung sinh hoạt; chăm sóc trong các mái ấm, cơ sở tình thương; dạy văn hóa, trò chuyện, tâm tình với trẻ. 
- Tích cực tuyên truyền, vận động cộng đồng chung tay giúp đỡ trẻ em lang thang, cơ nhỡ.
- Mở rộng, nâng cao: bản chất và truyền thống nhân đạo của dân tộc “nhiểu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”.
 + Hạn chế nguyên nhân gây nên hiện tương trẻ em lang thang, cơ nhỡ.
ĐỀ 6
 Hãy trình bày quan điểm của mình trước cuộc vận động “nói không với những tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục”.
DÀN Ý
1.GIẢI THÍCH KHÁI NIỆM (TỪ NGỮ)
- Những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục là gì ?
+ Những tiêu cực trong thi cử là những hành vi vi phạm quy chế, pháp luật ở một khâu trong quá trình giáo dục. Đó là khâu cuối cùng: Kiểm tra đánh giá kết quả của cả quá trình giáo dục. Hiện tượng tiêu cực chủ yếu ở hành vi gian lận, thiếu trung thực của học sinh như quay cóp; chép bài của bạn; dung tiền để mua đề, mua điểm từ người ra đề, người chấmHiện tượng này còn xuất hiện ở đội ngủ làm công tác làm kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục: thầy lộ đề, vô tình hay cố ý chấm bài không đúng thực chất, vào nhầm điểm
+ Những tiêu cực trong thi cử là một biểu hiện của căn bệnh vì thành tích trong giáo dục. Gọi là bệnh vì thành tích vì trước đó nó chỉ là hiện tượng các biệt ở một vài cá nhân hay cơ sở giáo dục, dần về sau đã trở nên trầm trọng như một căn bệnh cần phải chữa chạy kịp thời, nghiêm túc.Thành tích là kết quả của nững phong trào thi đua lành mạnh rất đáng trân trọng, rất cần khuyến khích. Song nếu vì chạy theo thành tích mà bất chấp cả quy chế, pháp luật thì lại rất cần ngăn chặn, lên án. 
 - “Nói không với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”nghĩa là có nhận thức sâu sắc, đúng đắn: có thái độ kiên quyết và những hành động thiết thực để chấm dứt những biểu hiện tiêu cực trong Ngành Giáo dục, trả cho giáo dục môi trường trong lành vốn có.
 - Tại sao có cuộc vận động “nói không với những tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục”?
 + Quan điểm của Đảng, Nhà nước coi giáo dục là quốc sách. Giáo dục đảm nhận sứ mạng bồi dưỡng nhân tài và đạo tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu “Dân giàu- Nước mạnh- xã hội công bằng, gân chủ, văn minh”.
 + Thực trạng chất lượng giáo dụcchưa thực sự đáp ứng được những mục tiêu đào tạo con người : chất lượng văn hóa, chất lượng đạo đức, chất lượng giáo dục thể chấtTình trạng trò ngồi nhằm lớp, thầy chọn nhằm nghề không còn là cá biệt.
2. TRÌNH BÀY QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN
- Đây là cuộc vận động quan trọng, thiết thực với Ngành Giáo dục và xã hội.
- Lực lượng tham gia thực hiện cuộc vận động này là toàn thể xã hội song lực lượng chủ yếu vẫn là người dạy, người học, người làm công tác quản lý giáo dục.
- Mỗi lực lượng trên có cách thể hiện trách nhiệm khác nhau. Với người học, cách thiết thực nhất để hưởng ứng, thực hiện cuộc vận động này là:
 + Trước hết, cần xác định đúng đắn mục đích học tập để có động cơ học tập đúng: học để có kiến thức, hiểu biết cùng những kỷ năng sống cần thiết làm hành trang bước tới tương lai một cách tự tin, tự chủ.Học cho tương lai của chính mình để làm chủ tương lai của mình và chuẩn bị gánh vác vai trò làm chủ tương lai đất nước.
 + Tự rèn luyện đức tính trung thực trong cuộc sống cũng như trong học tập. Từ đó mới cần cù chăm chỉ có ý chí và quyết tâm sẳn sàng vượt khó trong học tập.
 + Hình thành được phương pháp học tập khoa học để nắm vững, vận dụng thành thạo kiến thức dũng cảm đoạn tuyệt lối học vẹt, từ bỏ lối ghi nhớ máy móc, thái độ học thụ động.
 + Dũng cảm, bản lĩnh trong cuộc đấu tranh chống lại những hành vi tiêu cực trong thi cữ và bệnh vì thành tích ở chính mình và trong môi trường giáo dục mình đang học tập.
 - Ý nghĩa thực hiện hiệu quả cuộc vận động “ nói không với những tiêu cực trong thi cữ và bệnh thành tích trong giáo dục” sẽ góp phần đưa nền giáo dục nước nhà thoát khỏi tình trạng trì trệ, tụt hậu.Đạt yêu cầu “học thật, thi thật, kết quả thật”, sản phẩm đặc biệt của ngành giáo dục là con người mới có thể thực sự trở thành những chủ nhân xứng đáng của tương lai dân tộc.
 - Khẳng định quan điểm của bản thân, có thể rút ra những bài học có ý nghĩa với bản thân từ cuộc vận động này. 

Tài liệu đính kèm:

  • docDAN Y CAC DE VAN NGHI LUAN BAI VIET SO 12.doc