Chuyên đề: Thơ Tố Hữu (phần các tác phẩm) - Vấn đề 3: Kính gửi cụ Nguyễn Du

Chuyên đề: Thơ Tố Hữu (phần các tác phẩm) - Vấn đề 3: Kính gửi cụ Nguyễn Du

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

Giữa lúc nhân dân ta còn chống Mỹ, vùng Hà Tĩnh quê hương của Nguyễn Du ở trong

tuyến lửa dữ dội. Nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất của thi hào, lại có dịp đi vào Khu Bốn, Tố

Hữu “cảm tác” ra bài thơ này để thể hiện những cảm xúc, những nung nấu từ lâu về Nguyễn

Du và Truyện Kiều (Lưu ý thời kỳ này rất nhiều nhà thơ đã viết về đề tài này).

1/ Bài thơ được viết bằng thể thơ lục bát mượt mà mà Nguyễn Du đã từng dùng để tạo

nên “Truyện Kiều” bất hủ. Tất cả gồm 34 câu đựơc phân bố một cách có dụng ý

pdf 11 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 2767Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề: Thơ Tố Hữu (phần các tác phẩm) - Vấn đề 3: Kính gửi cụ Nguyễn Du", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề 2: THƠ TỐ HỮU 
 Phần 2: Các tác phẩm 
Vấn đề 3: KÍNH GỬI CỤ NGUYỄN DU 
“Nhân tình nhắm mắt chưa xong 
Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như?” 
(Tố Hữu – Ra trận) 
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN 
 Giữa lúc nhân dân ta còn chống Mỹ, vùng Hà Tĩnh quê hương của Nguyễn Du ở trong 
tuyến lửa dữ dội. Nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất của thi hào, lại có dịp đi vào Khu Bốn, Tố 
Hữu “cảm tác” ra bài thơ này để thể hiện những cảm xúc, những nung nấu từ lâu về Nguyễn 
Du và Truyện Kiều (Lưu ý thời kỳ này rất nhiều nhà thơ đã viết về đề tài này). 
 1/ Bài thơ được viết bằng thể thơ lục bát mượt mà mà Nguyễn Du đã từng dùng để tạo 
nên “Truyện Kiều” bất hủ. Tất cả gồm 34 câu đựơc phân bố một cách có dụng ý. 
 Hai câu đầu là không gian và thời gian tạo gợi cảm xúc. Sau đó cảm xúc được triển 
khai. Năm khổ thơ đều đặn sáu câu có tính chất suy ngẫm bàng bạc một nỗi niềm hướng về 
quá khứ. Khổ sáu, câu thứ nhất nói về mối thương cảm với thân phận nàng Kiều Tiếp theo 
là sự cảm thông với Nguyễn Du. Hai khổ “Tiếng đàn hại người” là liên hệ với thời đại ngày 
nay để khẳng định sức sống lâu dài và giá trị của tác phẩm. Khổ tiếp theo Tố Hữu đánh giá 
cao với lòng trân trọng và biết ơn Nguyễn Du. Hai câu cuối trở về thơ hiện tại sôi động và của 
cuộc kháng chiến chống Mỹ. 
 2/ Câu thơ “Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều”là cảm hứng bao trùm bài 
thơ và nói lên tâm trạng rất phù hợp của Tố Hữu. Khi “nửa đêm qua huyện Nghi Xuân”. 
Những suy ngẫm có dịp trỗi dậy để tác giả nhớ “người xưa”. 
 Tố Hữu xúc cảm nhất đối với nàng Kiều là nghĩ đến một thân phận bơ vơ, tâm trạng 
ngổn ngang đau đớn không lối thoát, đành phó thác cuộc đời mình cho số phận (Những tâm 
trạng ba đào và cảnh ngộ đáng thương của Kiều nhi được biểu hiện gợi cảm nhất ở các từ láy: 
“tê tái, lênh đênh, ngẩn ngơ”) 
 Chỉ mấy câu mà tác giả gợi được cả cuộc đời Kiều và cho thấy niềm cảm thông sâu 
sắc với nhân vật này. 
 Từ xưa đến nay có rất nhiều nhà thơ vịnh Kiều, say Kiều, và Tố Hữu đóng góp một 
tiếng nói rất riêng của mình, của thời đại mình để chia sẻ với thân phận và tâm sự của Kiều. 
Tố Hữu thấy Kiều số phận lênh đênh, bơ vơ và tâm trạng luôn ngổn ngang, ngẩn ngơ. Không 
phải ngẫu nhiên mà ở thời điểm hiện tại câu thơ “Nửa đêm” lại liên tưởng đời Kiều.”Trời 
đêm biết giữ thân mình nơi nao”. Quả là cái bi kịch không thể tìm được đường đi, không có 
lối thoát cho số phận là một bi kịch của một thời đại và của chính Nguyễn Du nữa”Đau đời 
có cứu được đời đâu” (Huy Cận), “Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời”  
“Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi” (Chế Lan Viên). 
 3/ Phần chính của bài thơ dành những câu thấm thía cho sự tưởng nhớ, cảm thông và 
trân trọng biết ơn Nguyễn Du. 
 Điều đặc sắc là tác giả dùng rất nhiều câu thơ nguyên văn cũng như những ý thơ của 
Nguyễn Du để nói về nhà thi hào đồng thời thể hiện niềm trân trọng cảm thông sâu sắc với 
tâm sự của Nguyễn Du. 
 Tố Hữu cho rằng, đáng trân trọng nhất ở Nguyễn Du là tình đời, là tấm lòng của một 
nhà thơ đã từng quan niệm “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Vì thế những từ “tơ lòng”, 
“nhân tình”,”lòng người”,”tình đời” được Tố Hữu sử dụng tập trung với ý nhấn mạnh. 
 4/ Tập trung nhất là tác giả đánh giá Nguyễn Du: 
Tiếng thơ ai động những ngày 
 Tiếng thơ Nguyễn Du là kết tinh của cả nghìn năm văn hiến và nó sẽ vang dội đến 
nghìn năm sau nữa. Nghĩa là thơ Nguyễn Du tồn tại mãi mãi bất chấp quy luật nghiệt ngã của 
thời gian. Bởi vì đó là tiếng nói của tình đời, tình người, là tình thương của lòng mẹ. Cho nên 
nó sẽ có ảnh hưởng mãi các thế hệ đời sau. 
 5/ Bài thơ mang đậm tính dân tộc. Nó thể hiện sự quý trọng và vận dụng truyền thống 
thơ ca dân tộc của tác giả. 
 Những câu thơ lục bát có âm điệu cổ điển gợi ta nhớ tới những câu Kiều. Nhiều câu 
được lấy lại Kiều, nhiều câu vận dụng ý của Kiều (lối “tập Kiều”). Thế nhưng tình ý vẫn là 
của tác giả. Ngay cả khi nói về thời đại mình, tác giả cũng có dụng ý dùng lối nói ước lệ, 
tượng trưng và kết thúc là hình ảnh gợi không khí trang nghiêm cổ kính. 
 Bài thơ đã làm một vạch nối giữa quá khứ với hiện tại. Nó đã nói lên sự trân trọng 
những giá trị tinh thần trong quá khứ. Nó nói lên tấm lòng của chúng ta với thiên tài Nguyễn 
Du và Truyện Kiều bất hủ của ông. 
B. LUYỆN TẬP 
I. CÂU HỎI 
 1/ “Nội dung” Kính gửi cụ Nguyễn Du” của Tố Hữu là sự đồng cảm và thái độ đánh 
giá cao thi hào dân tộc Nguyễn Du”. 
 Anh chị hãy làm rõ nhận định trên. 
 2/ Vài nét về nghệ thuật của bài thơ. 
 3/ Tìm ra (và chép lại) vài câu thơ tiêu biểu trong bài để thấy được Tố Hữu đã tập 
Kiều rất thành công trong bài thơ này. 
* Gợi ý trả lời 
 1/ Trong bài thơ này, với tư cách là một nhà thơ chiến sĩ, nhân danh thời đại mới, Tố 
Hữu bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc với Nguyễn Du ở sự bế tắc không có phương hướng. Sự bế 
tắc của Nguyễn Du cũng chính là sự bế tắc của thời đại ông sống. Sự cảm thông của Tố Hữu 
được thể hiện qua việc nhà thơ bộc lộ niềm cảm thông đối với thân phận của nàng Kiều – Một 
nhân vật tài sắc vẹn toàn, hiếu thảo thuỷ chung nhưng bị dập vùi phũ phàng. (Nói đến Thuý 
Kiều cũng chính là nói đến Nguyễn Du. Nỗi đau của Kiều cũng chính là nỗi đau của Nguyễn 
Du. Thương cảm Thuý Kiều cũng chính là thương cảm Nguyễn Du). 
Hỡi lòng tê tái thương yêu 
Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh 
Ngổn ngang bên nghĩa bên tình 
Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao? 
Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào 
Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường. 
 Trong sáu dòng thơ trên, Tố Hữu đã sử dụng hàng loạt từ láy để thể hiện sinh động 
tâm trạng “tê tái”, “ngổn ngang” đau đớn, lẫn cảnh ngộ bi đát nổi chìm “lênh đênh”đành phó 
thác cuộc đời cho số phận của nàng Kiều. Điều đáng lưu ý là một bằng mấy câu thơ, Tố Hữu 
đã tóm lược khái quát được toàn bộ cuộc đời, số phận Thuý Kiều, và niềm cảm thương sâu 
sắc của nhà thơ đối với nhân vật. 
 Tố Hữu đặc biệt đề cao tác giả Truyện Kiều ở tấm lòng nhân ái của một nghệ sĩ lớn, 
“Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Nguyễn Du). Với Tố Hữu, Nguyễn Du được khẳng định 
là nhà nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu của dân tộc. Tiếng nói của Nguyễn Du là tiếng nói có thể 
lay động cả đất trời, là lời của non nước, tựa hồ như tiếng ru của người mẹ thấm vào thế hệ 
này sang thế hệ khác, bất tử trong đời sống dân tộc. Tiếng thơ ấy được chúng ta ngày nay trân 
trọng, đón nhận và phát huy, trong cuộc đấu tranh giải phóng đất nước: 
Tiếng thơ ai động đất trời 
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu 
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du 
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày 
Hỡi người xưa của ta nay 
Khúc vui xin lại so dây cùng người 
 Như vậy điều tạo nên giá trị đặc sắc của những đoạn thơ vừa trích nói riêng và của cả 
bài thơ nói chung chính là cái tình của Tố Hữu đối với Nguyễn Du. 
 2/ Trước hết ở bài này, Tố Hữu đã khơi gợi được không khí của cả một thời đã trôi 
vào dĩ vãng, bằng cách tập Kiều, phác hoạ thời đại Nguyễn Du bằng chính ngôn ngữ và nhân 
vật của Nguyễn Du. Tố Hữu chọn lựa trong bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du (bài Độc tiểu 
thanh kí) và nhất là trong Truyện Kiều những câu thật tiêu biểu, và một số nhân vật đã gây 
đau khổ cho Kiều (“Gớm quân Ung Khuyến, ghê bầy Sở Khanh”) đưa vào bài thơ một cách 
nhuần nhụy, tự nhiên nhằm phác họa thân phận chìm nổi, cô đọng của Kiều và tác giả Truyện 
Kiều (“Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như?” – “Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng” – “Mai sau 
dù có bao giờ” -  “Đau đớn thay phận đàn bà”) 
 Bên cạnh đó, những từ cổ và những ảnh cổ đã được sử dụng khá phổ biến tạo nên hiệu 
quả nghệ thuật đáng kể (“Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào Ngẫm xem qua kiếp phong trần - 
 Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân”. Nhờ đó, bài thơ vừa có âm hưởng trang trọng cổ 
kính, vừa gần gũi quen thuộc rất phù hợp cho việc biểu đạt ý tưởng: Trân trọng biết ơn những 
gì tốt đẹp của ông cha và quyết tâm phát huy chúng trong thời đại mới. 
II. LÀM VĂN (TỰ LUYỆN TẬP) 
 Đề 1: Bình giảng đoạn thơ: 
“Nửa đêm () thân ấy biết là mấy thân?” 
(Kính gởi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu) 
 Đề 2: Bình giảng đoạn thơ: 
“Tiếng thơ ai () cùng người” 
C. LỜI BÌNH 
 Sinh thời Nguyễn Du từng tự hỏi không biết ba trăm năm sau có ai người tri kỉ vì 
mình mà nhỏ nước mắt không. Từ đó đến nay chưa đến ba trăm năm. Nhưng những người có 
thể gọi là tri kỉ của nhà thơ, những người hiểu rõ những đau xót, căm giận, ước mơ và cả 
những băn khoăn bế tắc của Nguyễn Du, những người rất yêu quý cái tài và lại càng yêu quý 
hơn nữa cái tình của Nguyễn Du, những người ấy có đến hàng triệu. Những người ấy hôm nay 
không nhỏ nước mắt khóc Nguyễn Du mà rất phấn khởi kỉ niệm Nguyễn Du, lắng nghe lại 
tiếng nói sâu sắc của Nguyễn Du, trong khi tiếng súng chống Mĩ cứu nước vẫn nổ giòn suốt từ 
Nam chí Bắc. 
  Giữa lúc cuộc chiến đấu chống Mĩ đang diễn ra ác liệt trên cả hai miền , Ban bí thư 
Trung ương Đảng đã chỉ thị tổ chức trọng thể lễ kỉ niệm Nguyễn Du trong cả nước và theo đề 
nghị của Hội đồng hòa bình thế giới, lần đầu tiên một danh nhân văn hóa Việt Nam được kỉ 
niệm ở nhiều nước châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mĩ. Trong một bài thơ viết vào dịp ấy, 
Tố Hữu sau khi phê phán cái nhìn tối tăm không lối thoát của Nguyễn Du, đã hết lời ca ngợi 
tấm lòng ưu ái của nhà thơ và đối với tiếng thơ Nguyễn Du đã có một sự đánh giá cao, xưa 
nay chưa từng thấy: 
Tiếng thơ ai động đất trời! 
Nghe như non nước vọng lời nghìn thu 
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du 
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày 
(Kính gửi cụ Nguyễn Du) 
 Tố Hữu đã nói lên tất cả tấm lòng yêu quý và biết ơn của chúng ta với nhà thơ cổ điển 
lớn nhất trong văn học Việt Nam. Đúng là tiếng thơ ấy, yêu thương như tiếng ru của mẹ, tha 
thiết như tiếng gọi của quê hương, nghìn năm sau sẽ còn vọng mãi. 
(Hoài Thanh) 
ĐỀ TỔNG HỢP 
NÂNG CAO 
 Nhận định về phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, SGK Văn học 12, Tập một, NXB 
Giáo dục, H., 2002 viết: “ thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị”. 
 Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên. 
I. TÌM HIỂU ĐỀ 
 - Đề thuộc kiểu bài bình luận một vấn đề văn học (về đặc trưng phong cách một nhà 
thơ). 
 - Bài làm không chỉ bàn luận về sự kết hợp giữa chất “trữ tình” và “chính trị” trong 
thơ Tố Hữu mà còn phải đặt thơ Tố Hữu vào trong tương quan với các nhà thơ khác thuộc 
khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Từ đó làm sáng tỏ thơ Tố Hữu là “tiêu biểu” cho khuynh 
hướng thơ trữ tình chính trị. 
 - Về phạm vi kiến thức: học sinh có thể vận dụng các kiến thức về thơ Tố Hữu và thơ 
văn cách mạng trong và ngoài nhà trường để làm sáng tỏ yêu cầu của đề. 
II. DÀN BÀI SƠ LƯỢC 
 1/ Mở bài: 
 - Thế kỉ XX đối với dân tộc Việt Nam là một thế kỉ Cách mạng. Cách mạng không chỉ 
đổi thay số phận dân tộc mà còn đem đến cho thơ ca, văn học một nguồn mạch mới. Một 
khuynh hướng chủ đạo của văn học thế kỉ này là khuynh hướng thơ trữ tình chính trị mà Tố 
Hữu là một nhà thơ tiêu biểu. 
 - Đúng như SGK Văn học 12 nhận định “Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ 
trữ tình chính trị”. 
 2/ Thân bài: Bài làm cần đảm bảo nội dung sau: 
 - Mối quan hệ biện chứng giữa “thơ trữ tình” và “chính trị” trong thời đại cách mạng; 
 - Các kiểu thơ trữ tình chính trị và nét độc đáo trong thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu. 
 - Những biểu hiện của thơ trữ tình chính trị ở thơ Tố Hữu và những đóng góp mới mẻ 
của nó trong đời sống sáng tác văn học đương thời. Trên cơ sở đó đánh giá và chỉ ra ý nghĩa 
văn học sử của phong cách thơ Tố Hữu. 
 3/ Kết bài: 
 - Từ hiện tượng thơ trữ tình của Tố Hữu rút ra một vấn đề có tính lí luận: mối quan hệ 
giữa văn học và thực tiễn đời sống chính trị; giữa nhà văn và nhà chính trị. 
 - Khẳng định ý nghĩa và đóng góp quan trọng của thơ Tố Hữu trong dòng văn học 
cách mạng của dân tộc. 
III. TƯ LIỆU THAM KHẢO 
 “Một hiện tượng thơ khi đã phát triển trọn vẹn, viên mãn cần được xác định và gọi tên. 
Xác định đúng, gọi tên đúng mới đánh giá đúng. Thơ Tố Hữu thường được gọi bằng các tên 
khác như thơ tranh đấu, thơ thời cuộc, thơ thời sự, thơ cảm hứng xã hội, thơ chính trị, thơ đặt 
hàng Gọi là thơ đặt hàng rõ ràng là không hay vì nó gọi lên một quan hệ hàng hóa, gọi là 
thơ tranh đấu, thơ thời cuộc tuy chỉ ra tác dụng xã hội nhưng còn chung chung. Gọi là thơ 
thời sự và thơ cảm hứng xã hội đều chưa xác đáng bởi vì cốt lõi trong thơ Tố Hữu không 
phải là các sự kiện thời sự hay các vấn đề xã hội khác nhau mà là tình cảm chính trị, ý thức 
chính trị thường trực. 
 Thơ Tố Hữu là thơ thể hiện các tư tưởng, tình cảm chính trị của thời đại, là thơ phát 
hiện ý nghĩa chính trị của các hiện tượng đời sống. Mồ côi rõ ràng là một hiện tượng xã hội có 
thể nói thời nào cũng có, nhưng với con mắt chính trị, Tố Hữu nhìn ra một điều: xã hội hiện 
tại lúc ấy không quan tâm đến vấn đề đó – Thờ ơ con mắt lạnh. Nhìn chúng: “Có hề chi”. Mô 
típ lạnh lùng còn được nhà thơ sử dụng nhiều lần nữa để thể hiện tư tưởng cắt đứt ảo tưởng 
đối với xã hội cũ, do đó khác hẳn xu hướng cảm thương uỷ mị. Qua bức tranh Hai đứa bé, 
ông chỉ ra xung đột của hai thế giới, qua số phận người vú em, ông nhận ra vấn đề “chế độ”. 
Điều hết sức thú vị là trong tập thơ Từ ấy, Tố Hữu đề cập hết các hiện tượng xã hội 
được thể hiện trong Thơ mới lãng mạn và văn học hiện thực phê phán đương thời, và qua mỗi 
hiện tượng ông đều phát hiện ra ý nghĩa chính trị của chúng. Ông nhìn ra giải pháp cho mọi 
vấn đề bằng con đường đấu tranh chính trị. 
Đối với Tố Hữu, các hiện tượng “mồ côi”,”lạc loài”,”lầm than”,”lạnh lùng”,”khổ 
tủi”,”thảm sầu”,”hắt hủi”,”dâm ô”,”cô đơn”,”điêu tàn”,”đẹp và thơ” đều có nội dung xã 
hội cụ thể, chứ không phải là các hiện tượng chung chung, nghiệp dĩ của kiếp người. Tiếng 
đàn em bé hát rong, theo ông, phải là một hành vi chống lại chế độ cũ. Hai cái chết của hai 
đứa cháu người hành khất phải là cơ sở để nuôi căm hờn. Nhà thơ hướng mọi vấn đề xã hội 
vào một hướng duy nhất: Cách mạng. 
 Đối diện với văn thơ lãng mạn tiêu cực về mặt chính trị – đúng như Hoài Thanh nhận 
định, - Tố Hữu đã “chọi lại”, “chọi lại trên vấn đề cơ bản là thái độ sống và nhận thức chính 
trị”. Chọi lại như thế nào? Tố Hữu đã đưa lại cho các hiện tượng xã hội ấy một nội dung cụ 
thể, kéo chúng từ sự nhận thức trừu tượng trở về với mảnh đất hiện thực. Các bài Dửng dưng, 
Tháp đổ, Điêu tàn, Nhớ người, thể hiện rất rõ cho khuynh hướng đó. Ngay bài Lao Bảo mà 
rất nhiều khi bị xem là bằng chứng của việc nhà thơ “chưa thoát khỏi” ảnh hưởng tiêu cực của 
thơ mới, ta cũng thấy nhà thơ “chọi lại” bằng cách chỉ ra một hiện tượng điêu tàn, nhưng là 
do đế quốc Pháp gây nên. Đây cũng có “xương tàn”,”nắm mồ bao khối não”, có “huyết ứ 
dưới lời than”, nhưng là do “Roi đế quốc, báng súng trường quất xé. Thịt hi sinh của những 
kiếp đi đày”. Và đó là cơ sở để căm hờn, nung nấu ý chí chiến đấu. 
Trường hợp này cũng như nhiều trường hợp khác của Từ ấy, không thể căn cứ vào sự 
giống nhau của hình ảnh mà kết luận là nhà thơ đã chịu ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực của 
Thơ mới. Cái quyết định trong quan hệ ảnh hưởng không chỉ ở tính chất tích cực hay tiêu cực 
của hiện tượng văn học có trước, mà ở lập trường, bản lĩnh của chủ thể tiếp nhận. Tố Hữu đã 
cắt nghĩa lại, giải thích lại, đổi mới hẳn nội dung của các hiện tượng đó. Tiếp nhận ở đây có 
nghĩa là cải tạo và đổi mới. 
Thơ Tố Hữu cũng có xuân ý, trời hồng, phảng phất của thơ Xuân Diệu. Nhưng Xuân 
Diệu, mùa xuân gắn với tuổi trẻ hưởng thụ của người cá nhân, còn ở Tố Hữu là “xuân nhân 
loại”, xuân của thời đại mới – một mùa xuân mang đầy nội dung cách mạng. Vậy thì ở đây, 
nên nói cái nào ảnh hưởng cái nào? Cái quyết định vẫn là tư tưởng và bản lĩnh người tiếp 
nhận. Ở đây thể hiện rõ bản sắc vững vàng của một nhà thơ chính trị. 
Thường có ý kiến cho rằng thơ Tố Hữu có ít những hiện tượng đời thường, ít các chi 
tiết thường nhật, thơ ông thiên về tổng hợp và về “cái lịch sử”, thơ ông ít viết về tình yêu. Đó 
là những nhận xét có cơ sở. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ ở phương diện ít hay nhiều, mà chủ 
yếu ở tính chất của khái quát. Thực ra nhiều bài thơ của Tố Hữu không ít các chi tiết đời 
thường, hình ảnh của thực tại. Ta có thể căn cứ vào chi tiết mà nhận ra là bài thơ viết thời nào. 
Điều chủ yếu là nhà thơ tập trung khai thác khía cạnh nội dung chính trị của đời thường. Do 
đó, cái tiêu biểu của thơ Tố Hữu chủ yếu không nằm ở phía tái hiện đời thường, mà ở phía 
khái quát chính trị sâu sắc, thấm thía, đậm đà. Chẳng hạn như bài Người con gái Việt Nam 
hầu như chẳng có chi tiết sinh hoạt đời thường nào, mà rất “Tố Hữu”, và rất hay. Ngay tập 
thơ Việt Bắc giàu hiện tượng đời thường hơn cả nội dung của nó vẫn là ý thức chính trị của 
con người kháng chiến, khác hẳn chi tiết đời thường kiểu Na-dim Hi-cơ-mét. 
Không phải đợi đến bài Quê mẹ nhà thơ mới đưa các chi tiết đời tư vào đây. Ta đã biết 
Tố Hữu đưa đời tư vào ngay bài thơ đầu tiên của tập Từ ấy: bài Mồ côi. Nhà thơ mất mẹ từ 
khi ông hãy còn bé. Ông nhắc đến mẹ với những lời thơ rất mực thiết tha, nhưng thường bao 
giờ cũng gắn liền với lòng biết ơn Đảng: “Mẹ không còn nữa, con còn Đảng. Dìu dắt khi con 
chưa biết gì”, hay “mẹ ơi, mẹ sinh con ra trong cực khổ. Mẹ chưa hay từ đó có Liên xô. Có 
Lê-nin hằng che chở con thơ”. Nhắc đến con mình, nhà thơ liền nghĩ: “Còn bao nhiêu chưa 
được ngủ trong nôi. Miền Bắc thiên đường của các con tôi”. Cả tình yêu đôi lứa cũng thấm 
nhuần nội dung chính trị: “Mà nói vậy: Trái tim anh đó. Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ. 
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều . Phần cho thơ và phần để em yêu’’. Hoặc ‘’Khi âu 
yếm cùng anh, em hỏi. Tên nào trong muôn ngàn tên gọi. Như mối tình chung thủy không 
tan?- Trong lòng anh, tên ấy: Miền Nam!”. 
Nhiệt tình chính trị của nhà thơ luôn luôn thường trực trong mọi trường hợp, xâm 
chiếm vào mọi lĩnh vực đời sống. Và như vậy dẫu cái đời thường có đi vào thơ Tố Hữu nhiều 
hơn nữa, chất sinh hoạt vẫn không thể tăng lên. Đó cũng là một hiện tượng có quy luật của 
văn học vô sản trong những thời kì đầu, chẳng hạn như Người mẹ của M. Go-rơ-ki hay Thép 
đã tôi thế đấy của N. Ot-xtơ-rốp-xki. Nói về phong cách M. Go-rơ-ki trong Người mẹ, nhà 
phê bình văn học Xô viết A. Chi-che-rin cho rằng đó là một chủ nghĩa hiện thực không thể 
hiện ở “miêu tả các chi tiết sinh hoạt và tâm lí mà ở trong sự tái hiện một cách cụ thể và 
mạnh mẽ phi thường, nhưng lại khái quát chặt chẽ, tươi tắn, trang trọng về những người công 
nhân và nông dân Nga trước cách mạng 1905”. 
 Nói về Thép đã tôi thế đấy, có nhà phê bình Xô Viết gọi đó là “một cuộc sống không 
có đời thường”. 
 Cách tiếp cận ấy rất gần với Tố Hữu. Chính nhà thơ đã nhiều lần liên hệ ngày sinh của 
mình với ngày sinh của Liên Xô (cũ), của Đảng và của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng 
hòa. Có thể nói Tố Hữu là nhà thơ chính trị từ trong máu thịt, cốt tuỷ. 
 Là một nhà thơ, ông chỉ biết có cuộc sống duy nhất – cuộc sống chính trị. Có thể nói 
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ. Mặt trời chân lí chói qua tim” mới thực là ngày khai sinh và 
điểm khởi đầu của đời ông. Các giai đoạn cách mạng, những ngày lễ lớn, những sự kiện trọng 
đại của đất nước mới thật sự là những cái mốc trong cuộc đời tình cảm của ông. Ông không 
chỉ ở tù có mấy năm rồi sau vượt ngục. Ông dường như đã ở tù suốt trăm năm, nghìn năm. 
Ông không sống cuộc đời có tình yêu đôi lứa,không có dằn vặt đời thường, ông sống trọn vẹn 
cuộc đấu tranh suốt trăm năm cho tự do, độc lập của nhân dân ta. Trái tim ông đập nơi cảnh 
đói nghèo, bơ vơ do xã hội cũ tạo nên, nó rớm máu dưới giày đinh của thực dân đế quốc. Ông 
nghẹt thở nơi đất nước bị chia cắt làm đôi, ông đau đớn với cỏ cây, rừng núi Việt Nam thấm 
đầy chất độc màu da cam của Mĩ. Ông bay múa trong ngày Tổ quốc giải phóng, ông trẻ lại 
cùng đất nước hồi sinh. Bao giờ Tố Hữu cũng giữ cho tình cảm mình rung động mãnh liệt với 
ý nghĩa chính trị của các hiện tượng đời sống. Ngay thưởng thức phong cảnh thiên nhiên, nhà 
thơ cũng suy nghĩ tới chính trị. 
 Hoài Thanh có lần nhắc lại: ”Tố Hữu có lần nói, nghe chim kêu, thấy nắng đẹp mà 
không nghĩ do đâu mà có thì đánh giá mọi thứ đều sai”. Khi đứng trước một người ân nhân 
cách mạng sắp mất, nhà thơ cũng không hề để lộ niềm thương xót riêng tư, mà triền miên 
trong lẽ sống cách mạng lớn lao: 
Anh nghe thu rứt lá gọi đời đi 
Tôi thấy cả một mùa xuân bước lại 
(Những người không chết) 
 Như vậy thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu dựa trên tiền đề thống nhất hoàn toàn, lắm 
khi là đồng nhất chủ thể trữ tình cá nhân và chủ thể của hoạt động chính trị là giai cấp, Đảng, 
Nhân dân, Tổ quốc. Sự thống nhất cao độ ấy tự nó đã thủ tiêu lí do phân biệt tuyên truyền và 
trữ tình, làm gần lại phút bùng cháy của tâm hồn trữ tình với thời điểm bùng nổ của sự kiện 
chính trị. Tố Hữu đã kết hợp một tình cảm yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội thuần tuý nhất với 
một tình cảm cá nhân đằm thắm trong sáng nhất. Nhờ thế, ông đã sáng tạo được một thế giới 
nghệ thuật độc đáo của thơ trữ tình chính trị và nâng nó lên một trình độ mới. 
(Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, 
NXB Văn hóa Thông tin, H., 2001) 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvantap2-kinhguicuNguyenDu.pdf