Chuyên đề: Thơ kháng chiến (1945-1954) - Vấn đề 1: Tây tiến (Quang Dũng)

Chuyên đề: Thơ kháng chiến (1945-1954) - Vấn đề 1: Tây tiến (Quang Dũng)

“Quang Dũng viết khá sớm (trước Tây Tiến – 1948, anh đã làm thơ, mặc dù phải từ Tây Tiến,

anh mới khẳng định được một phong cách thơ riêng) và sáng tác nhiều thể loại. Tác giả của bài hát Ba Vì

mờ cao mà mỗi nốt nhạc, lời thơ từng lắng sâu vào đáy hồn những người thanh niên xa nhà đi kháng

Pháp, cũng là tác giả của nhiều bài thơ tình nằm trong ký ức sâu thẳm và thành hành trang tinh thần của

nhiều thế hệ, nhiều thời (Mắt người Sơn Tây, Tây Tiến, Những làng đã qua, Đường trăng ) mà phần

nhiều được truyền bằng những bản chép tay chứ không cần đến bản in giấy trắng, mực đen. Quang Dũng

là tác giả của những tập truyện ký, với phong thái riêng khó lẫn, lại cũng là tác giả của những bức tranh,

đa phần là tranh lụa, vẽ phong cảnh. Viết sớm và nhiều như vậy, nhưng vốn là người thích “giang hồ”,

lại vốn không chuyên tâm đến việc xuất bản, in ấn và lưu giữ, vì thế sáng tác của Quang Dũng bị thất lạc

nhiều. Và, cho đến hết đời, Quang Dũng vẫn chỉ là chủ nhân của một gia tài không mấy lớn lao so với

những bạn viết cùng lứa, cùng thời: hai tập thơ và ba tập văn xuôi (kể cả những tập in chung với bạn thơ,

bạn văn).

pdf 11 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 2811Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề: Thơ kháng chiến (1945-1954) - Vấn đề 1: Tây tiến (Quang Dũng)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Chuyên đề 3: THƠ KHÁNG CHIẾN (1945-1954) 
Vấn đề 1: TÂY TIẾN 
“Tây Tiến người đi không hẹn ước 
Đường lên thăm thẳm một chia phôi” 
Quang Dũng 
I. TƯ LIỆU VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 
 “Quang Dũng viết khá sớm (trước Tây Tiến – 1948, anh đã làm thơ, mặc dù phải từ Tây Tiến, 
anh mới khẳng định được một phong cách thơ riêng) và sáng tác nhiều thể loại. Tác giả của bài hát Ba Vì 
mờ cao mà mỗi nốt nhạc, lời thơ từng lắng sâu vào đáy hồn những người thanh niên xa nhà đi kháng 
Pháp, cũng là tác giả của nhiều bài thơ tình nằm trong ký ức sâu thẳm và thành hành trang tinh thần của 
nhiều thế hệ, nhiều thời (Mắt người Sơn Tây, Tây Tiến, Những làng đã qua, Đường trăng) mà phần 
nhiều được truyền bằng những bản chép tay chứ không cần đến bản in giấy trắng, mực đen. Quang Dũng 
là tác giả của những tập truyện ký, với phong thái riêng khó lẫn, lại cũng là tác giả của những bức tranh, 
đa phần là tranh lụa, vẽ phong cảnh. Viết sớm và nhiều như vậy, nhưng vốn là người thích “giang hồ”, 
lại vốn không chuyên tâm đến việc xuất bản, in ấn và lưu giữ, vì thế sáng tác của Quang Dũng bị thất lạc 
nhiều. Và, cho đến hết đời, Quang Dũng vẫn chỉ là chủ nhân của một gia tài không mấy lớn lao so với 
những bạn viết cùng lứa, cùng thời: hai tập thơ và ba tập văn xuôi (kể cả những tập in chung với bạn thơ, 
bạn văn). 
 Quang Dũng sống đôn hậu và trong con người đôn hậu ấy ẩn chứa một tâm hồn nghệ sĩ hùng 
hậu, đầy vẻ dân dã. Dù sớm phải xa quê, giã nhà đi kháng chiến, nhưng trên suốt nẻo đường chinh chiến, 
đi đâu, đến đâu và làm gì, con người bình dị ấy vẫn luôn hướng về quê hương. Quang Dũng có khả năng 
hòa hợp tuyệt diệu và rung động tinh nhạy với những chòm xóm, cảnh quê, với tình cảm đồng quê chân 
mộc, lam lũ nhưng cũng rất thơ mộng. Chính cảm xúc hồn hậu ấy, cái hồn quê ấy là cái hồn của những 
bức tranh quê được phát vẽ tài tình trong thơ anh bằng ngòi bút của một nghệ sĩ có năng khiếu thẩm mĩ 
tổng hợp – “Cầm, kì, thi, hoạ”. Cảnh hiện lên trong thơ anh không bàng bạc mà có thần thái, sinh động 
trong sự hòa hợp nhuần nhuyễn của âm thanh với sắc màu, của tình với cảnh. Có một sức gì níu giữ, gợi 
cảm ở những cảnh quê chân mộc thế này: 
Bến cuối thôn xuân hoa gạo rơi 
Sông xanh hiền triết lặng trôi xuôi 
Đò ngang một chuyến qua mưa bụi 
Ấm áp trong mưa tiếng nói cười 
Hoặc: Là những đường quân qua bến làng 
 Hoa nhài thơm ngõ đượm quân trang 
 Lớp này lớp khác người sang hết 
 Thuyền lại nằm phơi dưới nguyệt vàng 
Hoặc nữa: Nắng nửa sông xa mờ khí núi 
 Cánh hồng nhạt nhạt mây phiêu lưu 
 Trong thơ Quang Dũng, hầu hết là những “bức tranh quê” như thế. Với ý tưởng chủ đạo “quê 
hương trường cửu cùng non nước; Ba chục năm trời vẹn ý thơ”,Quang Dũng đã cố gắng lột tả cho hết vẻ 
đẹp nồng hậu của quê hương Việt Nam với những nét đặc sắc riêng không lẫn, góp cho thơ Việt Nam 
những bức tranh quê đầm thấm, xúc động lòng người.Trong tình yêu quê hương, đất nước mênh mang 
ấy, vẫn có một góc niềm riêng sâu thẳm, trong lành nhất, Quang Dũng dành riêng cho xứ Đoài-quê 
hương anh, nơi anh từng sống gắn bó suốt tuổi thơ. Có người đã nói”Quang Dũng là nhà thơ của xứ 
Đoài”, quả cũng một phần có lí. Viết về xứ Đoài, thơ anh đằm sâu, da diết cả trong tâm tưởng và tình 
cảm. Những ngày phải xa quê, canh cánh trong anh là nỗi mong ngóng nhớ nhung khắc khoải về vùng 
quê xa ấy: 
 Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt 
 Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì 
 Nhiều khi không kìm được, anh phải thốt thành lời cho nguôi ngoai nỗi nhớ” Tôi nhớ xứ Đoài 
mây trắng lắm”. Cháy bỏng nỗi khát khao, ngày được trở lại, được say sưa hít thở không khí thôn dã, 
được đắm mình trong hương mùa màng, được tận hưởng niềm vui thưởng ngoạn tận hưởng vẻ đẹp của 
quê hương: 
 Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn 
 Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng 
 Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc 
 Sáo diều khuya khoắt thổi thêm trăng 
 Có người làm thơ lấy cái “chân” làm gốc, lại cũng có người trọng sự tài hoa. Ở Quang Dũng là 
sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp chân chất, dân dã với tài hoa tinh tế. Nhiều bài thơ, do vậy đạt đến độ 
chân tài. Bên cạnh Tây Tiến, là những bài thơ từng sống và lắng sâu trong tâm tưởng người đọc: Mắt 
người Sơn Tây, Những làng đã qua, Đường trăng, Những cô hàng xóm 
 Quang Dũng viết hồn nhiên và rất thật. Dường như chưa bao giờ anh giấu mình và càng không 
bao giờ dối mình trong thơ. Từ sự dấn thân, mang đậm hào khí của cả một lớp người thời đại: 
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh 
Đến những kỉ niệm, những tâm sự buồn vui của cuộc đời chinh chiến và sau này nữa, cả cảm 
giác chật chội thiếu chân trời trong Mây đầu ô đều là tâm sự thật, cảm giác thật của riêng anh được bộc 
bạch trên trang giấy. Những lời nhắc nhở trong Đường chiều thứ bảy, cũng mang nét riêng của Quang 
Dũng: không gân cốt mà thấm thía bởi đó là sự nhắn gửi thiết tha của một tấm lòng nhân hậu, trọng nghĩa 
tình. 
Thơ Quang Dũng có nhiều bài lắng buồn: Mưa, Quán nước, Thu, Chiều núi mưa rào Ngay cả 
cái buồn ấy cũng là tâm trạng thực của anh viết ra nhiều khi dễ gây hiểu lầm, song anh vẫn không ngại 
bộc bạch. 
Quang Dũng không viết một cái gì chung chung. Với anh, thơ là sản phẩm, mang sắc thái riêng và 
cụ thể những gì anh đã sống trải, quan sát và ghi nhận được.Phần không nhỏ tạo nên sức hấp dẫn và giá 
trị lâu dài của thơ chính là ở tính cụ thể, chân sát ấy. Nhờ vậy, chúng ta mới có được những bài thơ có 
sức gợi dựng lại cả một thời hoặc lưu khắc lại chân dung sát thực của cả một thế hệ, dạng như Tây Tiến, 
Những làng đã qua, đường 12, những cô hàng xóm, đường trăng 
Dù Quang Dũng để lại cho chúng ta không nhiều thơ nhưng mặc nhiên bốn mươi năm nay, anh 
là nhà thơ được mến mộ. Với Rừng Biển quê hương (tập thơ in chung với Trần Lê Văn), Bài thơ Sông 
Hồng, Mây đầu ô Quang Dũng đã dành cho chúng ta phần quý đẹp riêng của tâm hồn và cá tính sáng tạo 
độc đáo của một nghệ sĩ chân tài, đầy nhiệt tâm với quê hương, đất nước và con người. 
 Mai Hương(Quang Dũng(1921-1986) 
 Tạp chí văn học số 3 – 1990, TR 39-41) 
Quang Dũng vào “làng” thơ cách mạng với bài Tây Tiến . Như có mối duyên gì ràng buộc, bài 
thơ ấy gắn bó với người làm ra nó đến mức cứ nói đến Quang Dũng là người ta nhớ đến bài thơ Tây Tiến 
và ngược lại. 
() Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng, Nguyên Phái Viên phòng quân sự Bắc Bộ 
và học viên lớp quân sự ở Tông (Sơn Tây ) về Phùng từ giã Mẹ già, Vợ trẻ, con thơ để lên đường gia 
nhập đoàn quân Tây Tiến. Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ 
phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao quân đội Pháp ở Thượng Lào để 
hỗ trợ cho những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn đóng quân và hoạt động của Tây Tiến khá rộng : từ 
Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng về qua miền Tây Thanh Hoá. Bộ đội Tây Tiến phần đông 
là thanh niên Hà Nội, lao động chân tay cũng lắm, trí thức cũng nhiều. Có những học sinh cũ của các 
trường Sư Phạm, Bưởi, Thăng Long, Văn Lang như Quang Dũng, Vạn Thắng, Tuấn Sơn, Như Trang 
Riêng Tuấn Sơn và Như Trang đã đỗ tú tài và thường được gọi là hai “ Cậu Tú”. Bác sĩ Phạm Ngọc 
Khuê cũng là một trí thức và một thầy thuốc có tiếng. Lại có những nữ chiến sĩ hoa khôi của thủ đô như y 
tá Phương LanXuất thân “ bình dân” thì có anh trước kia bán “ phá xan” (lạc rang) , có anh trước kia 
làm đồ tể ở lò mổ. Họ sống với nhau rất vui. Anh đồ tể có thể biểu diễn mổ bò trong chớp mắt để tổ chức 
liên hoan. Cô y tá xinh đẹp súng lục đeo bên sườn, phi ngựa như bay. Ai thiếu áo thì đồng đội có thể cởi 
áo tặng ngay. Cái gian khổ, cái thiếu thốn về vật chất của tây Tiến cũng khủng khiếp. Hồi ấy ở rừng, sốt 
rét hoành hành dữ dội. Đánh trận tử vong ít, sốt rét tử vong nhiều. Đại đội trưởng kim nhạc sĩ Như Trang 
sáng tác bài hát “ Tiếng còng quân y” tả cái tiếng còng rền rỉ không mấy ngày là không nổi lên ở trạm 
quân y, báo hiệu một đồng chí qua đời vì sốt rét. Thuốc chữa bệnh rất hiếm, nhất là món Ký ninh vàng. 
Mỗi buổi sáng, cô y tá bỏ vài viên vào một chai nước. Mỗi bệnh nhân được uống một chén. Thơ Quang 
Dũng viết “ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” là nói về những cái đầu cạo trọc để khi đánh giáp lá cà, 
Tây cũng không nắm được chiến sĩ ta. Nhưng “ không mọc tóc” còn có nghĩa sốt rét đến nỗi tóc cũng 
không mọc được. “ Quân xanh màu lá” vì sốt rét như thế mà “ vẫn dữ oai hùm” nhiều trận đánh làm cho 
giặc Pháp kinh hoàng. Như trận Dốc Đẹt ( trên đường từ Phố Vàng sang Mườn Bi) có những chiến sĩ sốt 
rét run cầm cập, vẫn nằm nguyên ở vị trí chiến đấu, bắn súng, ném lựu đạn, vần đá từ trên cao xuống tiêu 
diệt địch. Bọn giặc sống sót phải rút lui xuống Suối Rút . 
Đoàn quân tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội 
trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa 
bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh anh viết bài thơ Tây Tiến. Bài thơ vừa ra đời đã được đọc trong và ngoài 
quân đội truyền tay, truyền miệng cho nhau. Trong tập “thơ” do nhà xuất bản Vệ quốc quân liên khu III 
ấn hành năm 1949, bài thơ có nhan đề là “ Nhớ Tây Tiến”. Năm 1957, khi đưa bài này vào tập “ Rừng 
biển quê hương” ( in chung với Trần Lê Văn – Nhà Xuất Bản hội nhà văn) Quang Dũng bỏ chữ “Nhớ”, 
chỉ lấy hai chữ “ Tây Tiến” 
 Trần Lê Văn( bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng 
 In trong Nhìn nhận lại một số hình tượng Văn học. 
 Báo Giáo viên nhân dân, số đặc biệt(27-28-29-30-31) tháng 7/1989, 
TR..41) 
II. CÂU HỎI
 1/ Kể tên ba bài thơ viết về người lính trong buổi đầu kháng Pháp đã được học và đọc thêm ở 
chương trình văn trung học. Mỗi bài chép lại vài câu tiêu biểu. 
 2/ Thí sinh hiểu gì về bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng. 
III.LÀM VĂN 
 Đề 1: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “ Tây Tiến” của Quang Dũng: 
 “Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi ! 
 Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi 
 Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi 
 Mường Lát hoa về trong đêm hơi 
 Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm 
 Heo hút cồn mây, súng ngửi trời 
 Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống 
 Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi 
 Anh bạn dãi dầu không bước nữa 
 Gục lên súng mũ bỏ quên đời ! 
 Chiều chiều oai linh thác gầm thét 
 Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người 
 Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói 
 Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” 
 * Bài làm 
 Năm 1948, cuộc kháng chiến của quân thù và dân ta chống thực dân Pháp bước sang năm thứ 3. 
Ta vừa thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc thu đông 1947. Chặng đường lịch sử phía trước của dân tộc 
còn đầy thử thách gian nan. Cuộc kháng chiến đã chuyển sang một giai đoạn mới. Tiền tuyến và hậu 
phương tràn ngập tinh thần phấn chấn và quyết thắng. 
 Thời gian này, văn nghệ kháng chiến thu được một số thành tựu xuất sắc. Một số bài thơ hay viết 
về “anh bộ đội Cụ Hồ” nối tiếp nhau xuất hiện: “Lên Tây Bắc” (Tố Hữu), “Đồng Chí” (Chính Hữu), 
“Nhớ” (Hồng Nguyên) và “Tây Tiến” của Quang Dũng. 
 Quang Dũng viết “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, một làng ven con sông Đáy hiền 
hòa. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản 
mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời tr ...  thơ trên đây là phần đầu bài “Tây Tiến”, một trong những bài thơ hay nhất viết về 
người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên 
hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “ Chiến trường 
đi chẳng tiếc đời xanh”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công, là 
kết hợp hài hoà giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ “ Tây 
Tiến” của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá 
 Đề 2: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “ Tây Tiến” của Quang Dũng: 
 “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, 
 Kìa em xiêm áo tự bao giờ 
 Khèn lên man điệu nàng e ấp 
 Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ 
 Người đi Châu Mộc chiều sương ấy 
 Có thấy hồn lau nẻo bến bờ 
 Có nhớ dáng người trên độc mộc 
 Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa 
 Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 
 Quân xanh màu lá dữ oai hùm 
 Mắt trừng gửi mộng qua biên giới 
 Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm 
 Rải rác biên cương mồ viễn xứ 
 Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh 
 Áo bào thay chiếu anh về đất 
 Sông Mã gầm lên khúc độc hành” 
BÀI LÀM 
“Tây Tiến” là bài hát của tình thương mến, là khúc ca chiến trận của anh Vệ quốc quân năm xưa, 
những anh hùng buổi đầu kháng chiến “ áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (“ Nhớ” – Hồng Nguyên), 
những tráng sĩ ra trận với lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. 
Quang Dũng viết bài thơ “Tây Tiến” vào năm 1948, tại Phù Lưu Chanh bên bờ sông Đáy thương 
yêu: “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc – Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng” (Mắt người Sơn Tây 
– 1949). Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập vào năm 1947, hoạt động và chiến đấu ở thượng 
nguồn sông Mã, miền Tây Hòa Bình, Thanh Hóa sang Sầm Nứa, trên dải biên cương Việt – Lào. Quang 
Dũng là một đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến, đồng đội anh nhiều người là những chàng trai Hà 
Nội yêu nước, dũng cảm, hào hoa. Bài thơ “Tây Tiến” nói lên nỗi nhớ của tác giả sau một thời gian xa rời 
đơn vị: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! – Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” 
Bài thơ gồm có 4 phần. Phần đầu nói về nỗi nhớ, nhớ sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn 
binh Tây Tiến với những nẻo đường hành quân chiến đấu vô cùng gian khổ Đoạn thơ trên đây gồm có 
16 câu thơ, là phần 2 và phần 3 của bài thơ ghi lại những kỉ niệm đẹp một thời gian khổ, những hình ảnh 
đầy tự hào về đồng đội thân yêu. 
Ở phần đầu, sau hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, 
người đọc ngạc nhiên, xúc động trước vần thơ ấm áp, man mác, tình tứ, tài hoa: 
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói 
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” 
Bát cơm tỏa khói nặng tình quân dân, tỏa hương của “thơm nếp xôi”, hương của núi rừng, của 
Mai Châu, và hương của tình thương mến. 
Mở đầu phần hai là sự nối tiếp cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở thành kỉ 
niệm đẹp trong lòng nhà thơ, và đã trở thành hành trang trong tâm hồn các chiến binh Tây Tiến: 
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, 
Kìa em xiêm áo tự bao giờ 
Khèn lên man điệu nàng e ấp 
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” 
 “Đuốc hoa” là cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngữ được dùng trong văn học 
cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều – 3096). Quang Dũng đã có một sự nhào 
nặn lại: hội đuốc hoa – đêm lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại đoàn binh Tây Tiến. “Bừng” chỉ ánh 
sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng 
bừng rộn rã. Sự xuất hiện của “em”, của “nắng” làm cho hội đuốc hoa mãi mãi là kỉ niệm đẹp một thời 
chinh chiến. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô phù xao Lào xinh đẹp, duyên dáng 
“e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ” trong lòng 
các chàng lính trẻ. Chữ “kìa” là đại từ để trỏ, đứng đầu câu “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” như một tiếng 
trầm trồ, ngạc nhiên, tình tứ. Mọi gian khổ, mọi thử thách, như đã bị đẩy lùi và tiêu tan. 
 Xa Tây Tiến mới có bao ngày thế mà nhà thơ “nhớ chơi vơi”, nhớ “hội đuốc hoa”, nhớ “chiều 
sương Châu Mộc ấy”. Hỏi “người đi” hay tự hỏi mình “có thấy” và “có nhớ”. Bao kỉ niệm sâu sắc và thơ 
mộng lại hiện lên và ùa về: 
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy 
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ 
Có nhớ dáng người trên độc mộc 
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” 
 Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy”, một vần lưng thần tình, âm điệu câu thơ trĩu xuống như một 
nốt nhấn, một sự nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng. Nữ sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là 
nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ là nhớ “hồn lau”, nhớ cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau 
trắng trời. Có “nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” thì mới có nhớ và “có thấy hồn lau” trong kỉ niệm. “Có 
thấy” rồi lại “có nhớ”, một lối viết uyển chuyển tài hoa, đúng là “câu thơ trước gọi câu thơ sau” như 
những kỉ niệm trở về Nhớ cảnh (hồn lau) rồi nhớ người (nhớ dáng người) cùng con thuyền độc mộc 
“trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Hình ảnh “hoa đong đưa” là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái “dáng 
người trên độc mộc” trôi theo thời gian và dòng hoài niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp 
thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền “chiều sương ấy”. Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man 
mác bâng khuâng. Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này. 
Giữa những “bến bờ”, “độc mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng người”, là “hoa đong đưa” tất cả 
được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực mà lãng mạn, tài 
hoa. 
Phần ba bài thơ nói về đoàn binh Tây Tiến. Quang Dũng sử dụng bút pháp hiện thực để tạo nên 
bức chân dung những đồng đội thân yêu của mình. Ở phần một nói về con đường hành quân vô cùng gian 
khổ để khắc hoạ chí khí anh hùng các chiến sĩ Tây Tiến; Phần hai, đi sâu miêu tả vẻ đẹp lãng mạn của 
những chiến binh hào hoa, yêu đời. Phần ba này, người đọc cảm thấy nhà thơ dang nhớ, đang ngắm nhìn, 
đang hồi tưởng, đang nghĩ về từng gương mặt thân yêu, đã cùng mình vào sinh ra tử, nếm trải nhiều gian 
khổ một thời trận mạc. Như một đoạn phim cận cảnh gợi tả cái dữ dội, cái khốc liệt một thời máu lửa oai 
hùng. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc hun đúc qua 4.000 năm lịch sử được nâng lên tầm vóc mới của 
chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh: 
 “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 
 Quân xanh màu lá dữ oai hùm 
 Mắt trừng gởi mộng qua biên giới 
 Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” 
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau mà người đọc vẫn cảm thấy trong khói 
lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn dũng sĩ Tây Tiến. “ Đoàn binh 
không mọc tóc”, “ Quân xanh màu lá”, tương phản với “ dữ oai hùm”. Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh 
hình ảnh những “ Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên. Quân phục 
xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung 
trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía “ Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” 
là hình ảnh các tráng sĩ “ Sát Thát”, đời Trần; “ Tướng sĩ kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” là tầm 
vóc các nghĩa sĩ Lam Sơn. “ Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là chí khí lẫm liệt hiên ngang của anh bộ đội 
cụ hồ trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Gian khổ và ác liệt thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ. “ 
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”; Mộng giết giặc, đánh tan lũ xâm lăng “ xác thù chất đống xây thành 
chiến công”. Trên chiến trường, trong lửa đạn thì “ mắt trừng”, giữa đêm khuya trong doanh trại có 
những cơn mơ đẹp: “ đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “ dáng kiều thơm” từng in dấu vết trong 
văn lãng mạn thời tiền chiến, được Quang Dũng đưa vào vần thơ mình diễn tả thật “ đắt” cái phong độ 
hào hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của đất nghìn năm văn vật, giữa khói 
lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng, một “dáng 
kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng biến hoá, lúc thì bình dị mộc mạc, lúc thì mộng ảo nên thơ, và đó 
chính là vẻ đẹp hào hùng tài hoa của một hồn thơ chiến sĩ. 
 Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy sinh tráng liệt của những 
anh hùng vô danh trong đoàn quân Tây Tiến. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên 
như một lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên 
bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Một trời thương nhớ mênh mang: “Rải rác biên cương mồ viễn 
xứ” Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; yên nghỉ trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn thu. 
Chẳng có “da ngựa bọc thây” như các tráng sĩ ngày xưa, chỉ có “áo bào thay chiếu anh về đất”, nhưng Tổ 
quốc và nhân dân đời đời ghi nhớ công ơn các anh. Tiếng thác sông Mã “gầm lên” như một loạt đại bác 
nổ xé trời, “khúc độc hành” ấy đã tạo nên không khí thiêng liêng, bi tráng và cao cả: 
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ 
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh 
Áo bào thay chiếu anh về đất 
Sông Mã gầm lên khúc độc hành” 
 Các từ Hán Việt xuất hiện bất ngờ trong đoạn thơ (biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, 
khúc độc hành) gợi lên màu sắc cổ kính, tráng liệt và uy nghiêm. Có mất mát hy sinh. Có xót xa thương 
tiếc. Không bi lụy yếu mềm, bởi lẽ sự hy sinh đã được khẳng định bằng một lời thề: “Chiến trường đi 
chẳng tiếc đời xanh”. Biết bao xót thương và tự hào ẩn chứa trong vần thơ. Quang Dũng là một trong 
những nhà thơ đầu tiên của nền thơ ca kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh anh dũng của các 
chiến sĩ vô danh. Hơn 20 năm sau, những thi sĩ thời chống Mĩ mới viết được những vần thơ cảm động 
như thế: 
“Họ đã sống và chết 
Giản dị và bình tâm 
Không ai nhớ mặt đặt tên 
Nhưng họ đã làm ra Đất nước” 
(“Đất nước” - Nguyễn Khoa Điềm) 
Những tháng năm chiến tranh đã đi qua. Đoàn binh Tây Tiến những ai còn ai mất, những ai đã 
“lấy đá ven rừng chép chiến công”? “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi?” – xưa nay, buổi chiến tranh, mấy ai 
đi chinh chiến còn trở về? 
Đoạn thơ trên đây cho thấy cái tâm đẹp và cái tài hoa của Quang Dũng. Nếu Chính Hữu, qua bài 
“Đồng Chí” đã nói rất hay về người nông dân mặc áo lính, thì Quang Dũng, với bài thơ “Tây Tiến” đã 
dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi giữ nước” dũng 
cảm, can trường, trong gian khổ chiến đấu hy sinh vẫn lạc quan yêu đời. Anh hùng, hào hoa là hình ảnh 
đoàn binh Tây Tiến. 
Hai đoạn thơ trên đây thể hiện cốt cách và bút pháp lãng mạn, hồn thơ tài hoa của Quang Dũng. 
Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” thì “Tây Tiến” đã cho ta cảm nhận về ấn 
tượng ấy. “Tây Tiến” đã mang vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ viết về người lính – anh bộ đội cụ Hồ 
những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến ca 
ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. 
Đề 3: Khổ kết bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng 
 (Học sinh tự soạn) 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvantap3-taytien.pdf