Chuyên đề ôn thi: Việt Bắc - Tố Hữu

Chuyên đề ôn thi: Việt Bắc - Tố Hữu

Phong cách nghệ thuật thơ của Tố Hữu / bộ tranh tứ bình trong đoạn thơ sau bài "Việt Bắc" / Bình giảng đoạn thơ

Giới thiệu một vài nét khái quát về tác phẩm (thơ) và phong cách nghệ thuật thơ của Tố Hữu.

Bài làm

Tố Hữu là bút danh; họ tên là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh năm 1920 tại Thừa Thiên - Huế, và mất năm 2002.

Về sự nghiệp chính trị, Tố Hữu là cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước. Về thi ca, ông là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại.

Hơn nửa thế kỉ làm thơ, Tố Hữu hiện để lại nhiều tập thơ. Mỗi tập thơ đánh dấu một chặng đường lịch sử hào hùng của dân tộc ta trong thế kỉ 20.

- Từ ấy (1937-1946)

- Việt Bắc (1946-1954)

- Gió lộng (1955-1961)

- Ra trận (1962-1971)

- Máu và Hoa (1972-1977)

- Một tiếng đờn (1979-1992)

 

doc 13 trang Người đăng hien301 Lượt xem 2318Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề ôn thi: Việt Bắc - Tố Hữu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề ôn thi: Việt Bắc - Tố Hữu
Phong cách nghệ thuật thơ của Tố Hữu / bộ tranh tứ bình trong đoạn thơ sau bài "Việt Bắc" / Bình giảng đoạn thơ
Giới thiệu một vài nét khái quát về tác phẩm (thơ) và phong cách nghệ thuật thơ của Tố Hữu.
Bài làm
Tố Hữu là bút danh; họ tên là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh năm 1920 tại Thừa Thiên - Huế, và mất năm 2002.
Về sự nghiệp chính trị, Tố Hữu là cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước. Về thi ca, ông là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Hơn nửa thế kỉ làm thơ, Tố Hữu hiện để lại nhiều tập thơ. Mỗi tập thơ đánh dấu một chặng đường lịch sử hào hùng của dân tộc ta trong thế kỉ 20.
- Từ ấy (1937-1946)
- Việt Bắc (1946-1954)
- Gió lộng (1955-1961)
- Ra trận (1962-1971)
- Máu và Hoa (1972-1977)
- Một tiếng đờn (1979-1992)
-...
Tố Hữu làm thơ là để phục vụ chính trị cách mạng và kháng chiến. Phong cách nghệ thuật thơ của Tố Hữu có thể khái quát trong 4 điểm sau đây:
1. Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị. Cảm hứng chủ đạo trong thơ ông là những lời tâm huyết say mê về một lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của đất nước và dân tộc trong cách mạng và kháng chiến.
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,
Mặt trời chân lí chói qua tim".
("Từ ấy")
"Chưa bao giờ đẹp thế, sắc trời xanh
Và sắc đỏ của lá cờ ra trận".
("Tuổi 25")
"Ôi Việt Nam ! Yêu suốt một đời
Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi !"
("Vui thế, hôm nay...")
2. Thơ Tố Hữu in đậm khuynh hướng sử thi. Có thể nói đó là những bài ca chiến đấu, những khúc ca thắng trận vang dội âm điệu anh hùng ca:
"Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dộc tộc ta, dân tộc anh hùng !".
"(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên")
"Ôi, buổi trưa nay, tuyệt trần nắng đẹp
Bác Hồ ơi ! Toàn thắng về ta
Chúng con đến, xanh ngời ánh thép
Thành phố tên Người lộng lẫy cờ hoa"
("Toàn thắng về ta")
3. Giọng điệu tâm tình dịu ngọt là nét đặc sắc đậm đà trong thơ Tố Hữu. Tình quê, tình non nước, tình yêu Đảng, yêu Bác, tình mẹ con, tình đồng chí, đồng bào... là dư vị thiết tha, nồng ấm dào dạt trong thơ ông.
"Hương Giang ơi, dòng sông êm
 Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình".
("Bài ca quê hương")
"Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều
 Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu !".
("Bác ơi !")
4. Nghệ thuật thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc. Tố Hữu sử dụng nhiều thể thơ, nhưng đặc sắc nhất, thành công nhất là thể thơ lục bát. Ngôn ngữ thơ thanh thoát, giàu vần điệu nhạc điệu như ca dao, dân ca, như Truyện Kiều, nên rất dễ ngâm, dễ thuộc.
"Mình về mình có nhớ ta,
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng"...
("Việt Bắc")
"Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày...".
("Kính gửi cụ Nguyễn Du")
Nếu thơ ca là những dòng sông thì thơ Tố Hữu là một dòng sông trong xanh mà ta thương mến. Dòng sông ấy đang hợp lưu trong lòng ta.
Vẻ đẹp của bộ tranh tứ bình trong đoạn thơ sau bài "Việt Bắc" của Tố Hữu:
"Ta về mình có nhớ ta,
(...) Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".
Bài làm
"Việt Bắc" - bài thơ lục bát mang tầm vóc một trường ca dài 150 câu thơ, cảm xúc dâng lên mênh mông dào dạt. Bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1954, ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội. Qua bài thơ, Tố Hữu nói lên một cách thiết tha mặn nồng mối tình Việt Bắc, mối tình cách mạng và kháng chiến.
Đoạn thơ 10 câu dưới đây trích từ câu 43 đến câu 52 trong bài thơ "Việt Bắc" nói lên bao nỗi nhớ vô cùng thắm thiết thủy chung đối với Việt Bắc:
"Ta về mình có nhớ ta,
.............................
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".
1. Hai câu thơ đầu là lời hỏi - đáp của "ta", của người cán bộ kháng chiến về xuôi, ta hỏi mình "có nhớ ta". Dù về xuôi, dù xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó thiết tha với Việt Bắc:"Ta về, ta nhớ những hoa cùng người". Chữ "ta", chữ "nhớ" được điệp lại thể hiện một tấm lòng thủy chung son sắt. Nỗi nhớ ấy hướng về "những hoa cùng người", hướng về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và con người Việt Bắc thân yêu:
"Ta về, mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người".
Hai chữ "mình - ta" xuất hiện ở tần số cao trong bài thơ, cũng như ở trong hai câu thơ này đã thể hiện một cách rất đẹp tình cảm lứa đôi hòa quyện trong mối tình Việt Bắc, đồng thời làm cho giọng thơ trở nên thiết tha bồi hồi như tiếng hát giao duyên thuở nào. Đó là sắc điệu trữ tình và tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
2. Tám câu thơ tiếp theo, mỗi cặp lục bát nói lên một nỗi nhớ cụ thể về một cảnh sắc, một con người cụ thể trong 4 mùa đông, xuân, hè, thu.
a. Nhớ mùa đông nhớ màu "xanh" của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu "đỏ tươi" của hoa chuối như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh. Nhớ người đi nương đi rẫy "dao gài thắt lưng" trong tư thế mạnh mẽ hào hùng đứng trên đèo cao "nắng ánh...". Con dao của người đi nương đi rẫy phản quang "nắng ánh" rất gợi cảm:
"Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng".
Màu "xanh" của rừng, màu "đỏ tươi" của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của "nắng ánh"từ con dao; màu sắc ấy hòa hợp với nhau, làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên Việt Bắc, của con người Việt Bắc đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời trong kháng chiến. Tố Hữu đã có một cái nhìn phát hiện về sức mạnh tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân ta do cách mạng và kháng chiến mang lại. Người lao động sản xuất thì hào hùng đứng trên "đèo cao" ngập nắng và lộng gió. Đoàn dân công đi chiến dịch thì"bước chân nát đá muôn tàn lửa bay". Người chiến sĩ ra trận mang theo sức mạnh vô địch của thời đại mới:
"Núi không đè nổi vai vươn tới
 Lá ngụy trang reo với gió đèo".
("Lên Tây Bắc")
b. Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ "nở trắng rừng". Chữ "trắng" là tính từ chỉ màu sắc được chuyển từ loại thành bổ ngữ "nở trắng rừng", gợi lên một thế giới hoa mơ bao phủ khắp mọi cánh rừng Việt Bắc màu trắng thanh khiết mênh mông và bao la. Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu gợi nhớ trong lòng ta câu thơ của Nguyễn Du tả một nét xuân thơ mộng, trinh bạch trong "Truyện Kiều":
"Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".
Nhớ "mơ nở trắng rừng", nhớ người thợ thủ công đan nón "chuốt từng sợi giang". "Chuốt"nghĩa là làm bóng lên những sợi giang mỏng mảnh. Có khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể "chuốt từng sợi giang" để đan thành những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ kháng chiến, để anh bộ đội đi chiến dịch có "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan". Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, tính sáng tạo của đồng bào Việt Bắc. Mùa xuân Việt Bắc thật đáng nhớ:
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang".
c. Nhớ về Việt Bắc là nhớ mùa hè với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, là nhớ màu vàng của rừng phách, là nhớ cô thiếu nữ đi "hái măng một mình" giữa rừng vầu, rừng nứa, rừng trúc:
"Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình".
Một chữ "đổ" tài tình. Tiếng ve kêu như trút xuống "đổ" xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm cho rừng phách thêm vàng. Xuân Diệu cũng có câu thơ sử dụng chữ "đổ" chuyển cảm giác tương tự: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá..." ('Thơ duyên" - 1938). Câu thơ "Nhớ cô em gái hái măng một mình" là câu thơ đặc sắc, giàu vần điệu, thanh điệu. Có vần lưng:"Gái" vần với "hái". Có điệp âm qua các phụ âm "m": "măng - một - mình". Đây là những vần thơ nên họa nên nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật đẹp và vui, đầy màu sắc âm thanh. "Cô em gái hái măng một mình" vẫn không cảm thấy lẻ loi, vì cô đang lao động giữa khúc nhạc rừng, hái măng để góp phần "nuôi quân" phục vụ kháng chiến. Cô gái hái măng là một nét trẻ trung, yêu đời trong thơ 
Tố Hữu.
d. Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ khôn nguôi, nhớ trăng ngàn, nhớ tiếng hát:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".
Trăng xưa "vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân". Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là"trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa". Người cán bộ kháng chiến về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng "rọi" qua tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi màu "hòa bình"nên thơ. "Ai" là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, "nhớ ai" là nhớ về tất cả, về mọi người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung, đã hi sinh quên mình cho cách mạng và kháng chiến.
3. Đoạn thơ trên đây dào dạt tình thương mến. Nỗi thiết tha bồi hồi như thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, kẻ ở người về, mình nhớ ta, ta nhớ mình. Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng sẽ qua đi, những tiếng hát ân tình thủy chung ấy mãi mãi như một dấu son đỏ thắm in đậm trong hồn người.
Đoạn thơ mang vẻ đẹp một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10-1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng- Tố Hữu cũng thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa: đông - xuân - hè - thu, theo dòng chảy lịch sử. Mỗi mùa có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tuơi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màuvàng của rừng phách, màu trăng xanh hòa bình. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nói đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương đi rẫy, là người đan nón, là cô em gái hái măng, là những ai đang hát ân tình thủy chung. Tất cả đều thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của đồng bào Việt Bắc:cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời trong lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa, trẻ trung lạc quan yêu đời, ân tình thuỷ chung với cách mạng và kháng chiến.
Một giọng thơ ngọt ngào, tha thiết bồi hồi cứ quyện lấy tâm hồn người đọc. Nỗi nhớ được nói đến trong "Việt Bắc" cũng như trong đoạn thơ này cho thấy một nét đẹp trong phong cách thơ Tố Hữu: chất trữ tình công dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và tính thời đại được kết hợp một cách hài hòa.
Hình tượng đẹp, phong phú, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật đầy sức sống, với những đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, cấu trúc cân xứng hài hòa, để lại trong tâm hồn ta một ấn tượng sâu sắc như Bác Hồ đã viết:
"Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay..."
Thơ đích thực "là ảnh, là nhân ảnh..., từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la" (Nguyễn Tuân). Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình mến yêu Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ "nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp", để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài "Việt Bắc" của Tố Hữu:
...           "Ai về ai có nhớ không ?
(...) Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng".
Bài làm
"Việt Bắc" là một trong những thành tựu thơ ca xuất sắc, là đỉnh cao nhất tập thơ kháng chiến của nhà thơ Tố Hữu. Sau chiến thắng Điện Biên oai hùng, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng: "Hồ gươm xanh thắm quanh bờ - Thiên thu hồn nước mong chờ bấy nay..." (Lại về). Tháng 10-1954, sau 9 năm khói lửa, Hồ Chủ tịch cùng đoàn quân thắng trận trở lại thủ đô Hà Nội. Bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu ra đời trong hoàn cảnh lịch sử trọng đại ấy.
"Việt Bắc" được viết bằng thể thơ lục bát, dài 150 câu thơ. Phần đầu bài thơ tái hiện một thời gian khổ mà oanh liệt của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu nặng trong lòng người. Phần sau nói lên sự gắn bó gi ... 
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên".
Ngọn đèn pha của đoàn xe kéo pháo, của đoàn xe vận tải "bật sáng" phá tan những lớp"sương dày", đẩy lùi những thiếu thốn, khó khăn, soi sáng con đường kháng chiến, "như ngày mai lên" một bình minh chiến thắng ! Hình ảnh thơ mang ý nghĩa tượng trưng cho một tương lai tươi sáng của đất nước. Con đường Việt Bắc, con đường ra trận đầy máu lửa và chiến công, cũng là con đường đi tới ngày mai huy hoàng tráng lệ của đất nước, dân tộc.
3. Bốn câu thơ cuối đoạn thơ, một lần nữa Tố Hữu lại gọi tên các địa danh "chiến thắng trăm miền" trên đất nước thân yêu. Là Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Là Đồng Tháp, An Khê. Là đèo De, núi Hồng. Mỗi địa danh ghi lại một chiến công. Nhà thơ có một cách nói rất hay, rất biến hóa để diễn tả niềm vui chiến thắng dồn dập, giòn giã: "Tin vui chiến thắng... vui về.. vui từ... vui lên"; không chỉ có một hai nơi rời rạc, lẻ tẻ mà là "trăm miền", khắp mọi miền đất nước. Điệp từ "vui" như tiếng reo mừng thắng trận cất lên trong lòng hàng triệu con người từ Bắc chí Nam:
"Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng".
Đọc thơ Tố Hữu ta đã nhiều lần bắt gặp các địa danh. Trong bài "Việt Bắc" hơn 10 lần nhà thơ dùng cách gọi tên đó. Chế Lan Viên đã có nhận xét rất tinh tế về biện pháp nghệ thuật gọi tên các địa danh trong thơ Tố Hữu: ... "hãy đọc to lên, hãy để cho hồn thơ, nhạc điệu lôi cuốn ta đi, ta sẽ thấy rằng nhạc điệu ở đây đã tạo cho ta một tình cảm rất sâu: đó là lòng yêu đắm say đất nước, yêu như tát mãi không cạn, gọi mãi không cùng, yêu như muốn nêu mãi tên lên mà gọi, chỉ một cái tên thôi cũng đủ chấn động lên rồi". (Thơ Tố Hữu). Có thể nói, cách gọi tên các địa danh đã tạo nên nét đẹp riêng trong thơ Tố Hữu, đã thể hiện tình yêu sông núi và niềm tự hào dân tộc. Và đó cũng là một nét đẹp trong đoạn thơ này.
Nếu "thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp", thì đoạn thơ trên đây của Tố Hữu giúp ta cảm nhận ý kiến ấy. Đây là một đoạn thơ hay và đẹp trong bài "Việt Bắc". Đoạn thơ vang lên như một khúc ca thắng trận. Âm điệu thơ lục bát vốn nhẹ nhàng, êm ái nhưng ở đây, Tố Hữu đã chọn từ, dùng điệp âm, điệp thanh, gọi tên các địa danh - nên đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, mang âm điệu anh hùng ca, có sức lôi cuốn hấp dẫn kì lạ.
Những con đường Việt Bắc thời máu lửa cũng là con đường vui, con đường thơ, nó đã tỏa sáng hồn ta ngọn lửa Điện Biên thần kì, để ta yêu thêm, tự hào hơn Việt Bắc, "Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa". Nửa thế kỉ đã đi qua, đọc đoạn thơ trên, âm vang lịch sử, âm vang "Quân đi điệp điệp trùng trùng..." ra trận vẫn còn chấn động lòng ta. Nỗi nhớ trong đoạn thơ là một nỗi nhớ đẹp; nỗi nhớ của một tình yêu lớn: yêu Việt Bắc, yêu kháng chiến, yêu Đất nước Việt Nam thân yêu.
Bình giảng đoạn thơ trong bài "Kính gửi Cụ Nguyễn Du":
"Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.
Hỡi người xưa của ta nay,
Khúc vui xin được so dây cùng Người".
Bài làm
Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du là niềm tự hào lớn lao của đất nước ta, nhân dân ta. Tố Hữu trong bài thơ Xuân nổi tiếng hơn 40 năm về trước đã viết:
"Trải qua một cuộc bể dâu,
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình.
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh,
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều".
("Bài ca mùa xuân 1961")
Có thể nói, đó là những tiếng nói tri âm, những tấc lòng tri kỉ rất chân thành, cảm động. Mấy năm sau, trong dịp kỉ niệm 200 năm - ngày sinh đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu có bài "Kính gửi Cụ Nguyễn Du" từng được nhà văn Hoài Thanh khẳng định là sau cách mạng chưa có ai đánh giá Nguyễn Du cao như Tố Hữu.
Bài "Kính gửi Cụ Nguyễn Du" gồm có 34 câu lục bát, viết dưới hình thức tập Kiều, tác giả đã sử dụng thành công giọng điệu, ngôn ngữ, hình ảnh của "Truyện Kiều", tạo nên không khí thiêng liêng cổ kính, một sự "nhập hồn" thành kính tri âm, đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động.
Sáu câu thơ sau đây trích trong phần cuối bài "Kính gửi Cụ Nguyễn Du" đã thể hiện những lời tốt đẹp nhất, cảm động nhất của Tố Hữu đối với Nguyễn Du và kiệt tác "Truyện Kiều":
"Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.
Hỡi người xưa của ta nay,
Khúc vui xin được so dây cùng Người".
Giọng thơ nhẹ nhàng trong sáng, cảm xúc dào dạt như tan ra. Mỗi câu thơ mỗi vần thơ đều chứa đựng bao tình cảm trân trọng và biết ơn vô hạn đối với Tố Như. Tố Hữu đã lấy không gian và thời gian làm thước đo tầm vóc tiếng thơ Nguyễn Du:
"Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu."
Đất trời là vũ trụ bao la, kì vĩ và vĩnh hằng. Ngàn thu là trường tồn, dằng dặc. Tiếng thơ ấy là của Nguyễn Du, một con người vĩ đại đang được nói đến, đã biết, nhưng vẫn khẽ hỏi "tiếng thơ ai"... Cách dùng từ "ai" rất biểu cảm, biết rồi mà vẫn còn ngạc nhiên, càng ngạc nhiên càng bâng khuâng xúc động. Tiếng thơ Nguyễn Du, "Truyện Kiều" của Nguyễn Du nói lên số phận đau thương của con người, chứa chan tinh thần nhân đạo, là "Khúc Nam âm tuyệt xướng" (Đào Nguyên Phổ) thì mới có thể "động đất trời" như thế. Chữ "động" giàu hình tượng và biểu cảm. Có nghĩa là xúc động, lay động, cảm động, chấn động... Đã bao đêm ngày năm tháng, đã hai thế kỉ nay, đất trời mênh mông và bao la đang lắng nghe, đang xao xuyến, thổn thức về những "Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình". Thơ của Nguyễn Du, "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, "khiến người buồn", nên nó mới lay động, chấn động cả đất dày trời cao. Một giọng thơ, một hồn thơ đã và đang rung động, vang vọng giữa đất trời bấy lâu nay. Sự cảm nhận ấy, đánh giá ấy vừa biểu lộ tấm lòng cung kính, vừa khẳng định sức sống vô cùng mạnh mẽ, kì diệu của thơ Nguyễn Du. Tầm vóc "tiếng thơ ai" đâu chỉ có thế ? "Truyện Kiều" của một nghệ sĩ thiên tài đã trở thành lời non nước cao cả và thiêng liêng. Tiếng thơ từ một trái tim nghệ sĩ lớn đã bay lên cùng sông núi, mang theo ước mơ và khát vọng của con người về hạnh phúc. Non nước, sông núi quê hương đã chắp cánh cùng"tiếng thơ ai" vọng vào thời gian năm tháng, mãi mãi đến "ngàn thu". "Đất trời", "non nước" là cõi không gian mênh mông. "Ngàn thu" là dòng chảy thời gian vô tận. Tiếng thơ của Nguyễn Du mãi mãi vĩnh hằng và trường tồn cùng đất trời vũ trụ, cùng non nước quê hương đến ngàn thu muôn đời. Nó là kiệt tác, là "tập đại thành" của nền thi ca cổ điển Việt Nam. Nó hướng tới cái tuyệt mĩ nhân văn, trở thành "lời non nước", một nét đẹp của nền văn hóa dân tộc, nền văn hiến Việt Nam "vọng lời ngàn thu". Đúng như Chế Lan Viên đã cảm nhận:
"Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn".
("Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng")
2. Nếu hai câu thơ trên, đất trời non nước, ngàn thu là số đo tầm vóc kì vĩ, vĩnh hằng của thơ Nguyễn Du thì hai câu tiếp theo đã thể hiện niềm trân trọng và biết ơn đối với nhà thơ thiên tài của dân tộc. Cảm xúc ấy kết đọng qua một chữ "nhớ" chân thành:
"Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày."
Tố Hữu đưa người đọc đến một liên tưởng, nhớ lại một nỗi niềm tâm sự thầm kín của đại thi hào gửi lại mai hậu qua bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí". Sau 300 năm người con gái tài sắc mà bạc mệnh qua đời còn có một nhà thơ phương Nam qua Tây Hồ viếng nàng, nhỏ lệ tiếc thương. Rồi Nguyễn Du ngậm ngùi tự thương mình và nhắn gửi:
"Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?"
(Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như).
Với Tố Hữu cũng như nhân dân ta, cho dù sông cạn đá mòn thì vẫn "Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du" - "Nhớ" chứ không phải "khóc", không chỉ "tam bách dư" mà là thiên thu, nghìn năm, mãi mãi. Tố Hữu đã tăng cấp số từ chỉ thời gian. 300 năm lẻ là một thời gian cụ thể, có giới hạn. Nghìn năm đã trở thành ý niệm lâu dài, không hạn định, trường tồn đến muôn đời: "Truyện Kiều" là kiệt tác, nó "nằm ngoài những định luật của băng hoại", trở thành bất tử nên đất nước ta, nhân dân ta đến "nghìn năm sau" vẫn "nhớ Nguyễn Du" với tất cả lòng biết ơn sâu sắc. Ngôn ngữ của Tố Hữu rất tinh tế, biến hóa. Các khái niệm: ngàn thu, nghìn năm, thiên thu, thiên cổ... chỉ là một nhưng cách dùng của nhà thơ là cả một dụng công nghệ thuật. Ngàn thu" phải đi liền với "đất trời", "non nước" cũng như "nghìn năm" phải hô ứng với "nhớ", "tiếng thương", "tiếng mẹ ru". Đó là tính hệ thống và sắc thái biểu cảm của ngôn ngữ làm nên vẻ đẹp văn chương.
3. Hai câu cuối đoạn thơ này đã từng có nhiều cách hiểu hơi khác nhau. Cả bài thơ là tiếng nói chân thành ngợi ca, ngưỡng mộ. Vì thế, văn chương và sự nghiệp của "người xưa" là niềm tự hào, là tài sản của mọi con người Việt Nam, "của ta nay". Và có gì hạnh phúc hơn khi được hát lên "khúc vui" thời đại Hồ Chí Minh để hòa điệu, để hòa thanh, để "so dây"với "tiếng thương", "tiếng thơ" của người xưa. Một chữ  "Người" viết hoa đầy ân tình ân nghĩa:
"Hỡi người xưa của ta nay,
Khúc vui xin được so dây cùng Người".
Một đoạn thơ, một khúc ca tuyệt đẹp. Đẹp ở ngôn từ và đẹp ở tấm lòng. Tố Hữu từ "tiếng thơ ai" đã sáng tạo ra một chuỗi hình ảnh so sánh ẩn dụ; mỗi một hình ảnh đều mang bao hàm nghĩa mới mẻ, đem đến nhiều liên tưởng đầy tính nhân văn: "Tiếng thơ ai" - "lời non nước" - "lời ngàn thu" - "tiếng thương" - "tiếng mẹ ru". Cách cảm nhận thì phong phú sâu sắc, sự đánh giá thì ngày một mở rộng, một nâng cao, đó là tình tri âm, là lòng biết ơn, là sự trân trọng, ngưỡng mộ đối với cuộc đời và sự nghiệp thi ca của thi hào Nguyễn Du, nhất là kiệt tác "Đoạn trường tân thanh". Thơ lục bát của "Truyện Kiều" là đỉnh cao tuyệt vời về nghệ thuật "lời lẽ xinh xắn mà văn hoa, âm điệu ngân vang mà tròn trịa...", tạo nên "một thiên tình sử tuyệt đỉnh nghìn thu...". "Truyện Kiều" đã thành cổ điển mẫu mực, đã trở thành "tiếng thương", "tiếng mẹ ru", đẹp như dân ca, hóa thân vào dân ca,... Nó trở thành điệu tâm hồn dân tộc, ngọt ngào như dòng sữa mẹ nuôi dưỡng và bồi đắp tâm hồn con người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ khác. Trái tim Nguyễn Du bao la và mênh mông nên "Truyện Kiều" là "tiếng thương" mang nặng tình thương, chở nặng tình thương đến muôn đời:
-  "Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc,
Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên"...
("Đọc Kiều" - Chế Lan Viên)
-           "Mười lăm năm ấy, thân Kiều
Lênh đênh mệnh bạc, tình yêu khôn đầy".
("Phút giây" - Tố Hữu)
-   "Nguyễn Du, người đã viết
Truyện thơ Nôm hay nhất - "Truyện Kiều"
(...) Những câu thơ thành ca dao tục ngữ
Ru hồn ta như tiếng mẹ ru nôi".
("Bài học nhỏ về nhà thơ lớn" - Tế Hanh)
Một trong những đỉnh cao nghệ thuật lục bát của Tố Hữu là bài "Kính gửi Cụ Nguyễn Du". Đoạn thơ trên đây là phần hay nhất của bài tập Kiều này. Giọng thơ du dương, thiết tha, lắng đọng. Tình cảm dào dạt và chân thành. Tố Hữu đã đứng trên đỉnh cao thời đại - đánh Mĩ, thắng Mĩ - của nhân dân ta, đất nước và dân tộc ta mà ca ngợi cái hay cái đẹp của "Truyện Kiều" và sự nghiệp văn chương của thi hào Nguyễn Du.
Có thể xem bài thơ "Kính gửi Cụ Nguyễn Du" như một chân dung văn học rất độc đáo: trong đó, đoạn thơ 6 câu này là những nét vẽ linh diệu, có hồn, đầy tính nhân văn trở thành cổ điển sáng giá.
(ST)

Tài liệu đính kèm:

  • docCHUYEN DE VIET BAC.doc