Chuyên đề Ôn thi Văn 12 - Phần 4

Chuyên đề Ôn thi Văn 12 - Phần 4

* Câu 1.

Phân tích hình tượng cây xà nu và nhân vật Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.

* Câu 2.

Bình giảng đoạn thơ sau trong chương “Đất Nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm:

“ Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn, to lớn

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoà thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời ”

 

doc 9 trang Người đăng hien301 Lượt xem 1236Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Ôn thi Văn 12 - Phần 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề ôn thi Văn 12 (p4)
Đề tham khảo ôn thi 4
* Câu 1.
Phân tích hình tượng cây xà nu và nhân vật Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
* Câu 2.
Bình giảng đoạn thơ sau trong chương “Đất Nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm:
“ Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoà thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
Bài làm (Câu 1)
Dàn bài.
A. Mở bài.
1. Giới thiệu một vài nét ngắn về tác giả, tác phẩm.
- Nguyễn Trung Thành là bút danh của Nguyễn Ngọc trong thời chống Mĩ.
- “Rừng xà nu” là truyện ngắn xuất sắc về đề tài Tây Nguyên, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng miền Trung Trung bộ, số 2 năm 1965.
2. Giới thiệu nội dung của luận đề.
Truyện kể về cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man chống Mỹ - Diệm khát máu, từ bí mật đến vũ trang vì chân lí lịch sử và cách mạng: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Qua đó, Nguyễn Trung Thành đã sáng tạo nên hình tượng cây xà nu kì vĩ và nhân vật Tnú mang tầm vóc dũng sĩ phi thường.
B. Thân bài.
1. Phân tích hình tượng cây xà nu.
a. Cây xà nu và những phẩm chất cao quý của nó:
- Là cảnh quan hùng vĩ: “Những đồi xà nu nối tiếp chân trời”, “những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”.
- Cùng với ngôi nhà ưng, những rẫy lúa, cây pom chu, con nước lớn và rừng xà nu, đồi xà nu gắn bó thân thiết với cuộc sống và tâm hồn của người Strá bao đời nay.
- Trong bom đạn giặc Mỹ, rừng xà nu chịu bao đau thương “hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”; “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”; vết thương “bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn”. Có những cây con bị thương, vết thương “cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết!”.
- Cây xà nu có một sức sống mãnh liệt, cạnh một cây mới ngã gục “đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”.
Nó là loại cây trong rừng “ham ánh sáng mặt trời” nhất.
- Rừng xà nu mang tầm vóc dũng sĩ, hiên ngang và lẫm liệt “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”.
b. Ý nghĩa thẩm mĩ của hình tượng cây xà nu:
- Nguyễn Trung Thành đã xây dựng một kết cấu trùng điệp hoành tráng, bóng dáng cây xà nu xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, hơn 20 lần được nói đến. Nó gắn liền với một cuộc sống mất còn, với đau thương và sự quật khởi vùng dậy chiến đấu của dân làng Xô Man. Nó đã góp phần biểu hiện chủ đề tác phẩm: lòng trung thành với cách mạng, khát vọng tự do và tinh thần bất khuất của đồng bào Tây Nguyên trong chống Mỹ.
- Nhiều chi tiết nghệ thuật mang ý nghĩa tượng trưng được thể hiện bằng những so sánh hoặc nhân hóa đặc sắc. Rừng xà nu tượng trưng cho thế trận chiến tranh nhân dân, người người lớp lớp, thế hệ này ngã xuống tức thì thế hệ sau tiếp nối, quật khởi, hiên ngang đứng lên. Ngọn xà nu “hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, cây xà nu mới nhú khỏi mặt đất “nhọn hoắt như mũi lê”; “hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Đó là những hình ảnh kì vĩ cho thấy cây xà nu, rừng xà nu mang tư thế và tầm vóc dũng sĩ anh hùng thần kì, khẳng định sức mạnh vô tận và vô địch của núi rừng và con người Tây Nguyên trong bão táp cách mạng.
- Ngọn lửa xà nu xuất hiện nhiều lần trong truyện. Nếu như trong sử thi    “Ra-ma-ya-na”, ngọn lửa thần A-nhi soi sáng và khẳng định tấm lòng trung trinh của nàng Xi-ta, thì ở trong “Rừng xà nu”, ngọn lửa xà nu là một biểu tượng rất kì diệu. Dưới ngọn lửa xà nu, Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết, cán bộ Đảng hoạt động bí mật, gửi cho dân làng Xô Man; ngọn lửa soi sáng con đường đi tới: “Người còn sống phải chuẩn bị giáo mác, vụ, rựa, tên, ná”. Ngọn lửa xà nu bốc cháy trên mười đầu ngón tay Tnú không chỉ nói lên tội ác man rợ của thằng Dục và bè lũ Mĩ - Diệm khát máu, mà còn chiếu sáng tinh thần trung nghĩa, bất khuất của đứa con của người Strá thân yêu. Và cũng trên nhà ưng, đống lửa xà nu lớn giữa nhà cháy dữ dội, lưỡi mác cụ Mết và của các chiến sĩ du kích sáng loáng, xác 10 tên giặc ngổn ngang quanh đống lửa đó. Chính từ đêm đó, “suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động - Và lửa cháy khắp rừng”. Ngọn lửa xà nu! Ngọn lửa chiến đấu và chiến thắng đã làm sáng bừng thiên  truyện, tạo nên vẻ đẹp sử thi huyền thoại.
2. Phân tích nhân vật Tnú:
a. Tnú là một con người trung thành, mưu trí, bất khuất và vô cùng dũng cảm.
- Ngay từ thời còn nhỏ, Tnú đã cùng Mai vào rừng tiếp tế, nuôi giấu anh  Quyết cán bộ Đảng “nằm vùng”, và học chữ. Tnú đã đi ba ngày đường tới núi Ngọc  Linh mang về một xà lét đầy đá trắng làm phấn. Đó là lòng “khát chữ” để vươn lên làm người và vươn tới ánh sáng cách mạng của anh, của người Strá quê anh.
- Học chữ thì Tnú không bằng Mai, nhưng đi giao liên thì đầu anh “sáng lạ lùng”. Giặc vây các ngả đường, Tnú leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi “xé rừng mà đi”, lọt qua tất cả các vòng vây. Qua sông, Tnú lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình. Tnú biết là chỗ nước mạnh giặc “không ngờ”. Thật là mưu trí.
- Bị giặc phục kích, họng súng giặc “chĩa vào tai lạnh ngắt”, Tnú nuốt luôn cái thư bí mật của anh Quyết gửi về huyện. Giặc tra tấn dã man. Chúng giải anh về làng, bắt Tnú khai người nào là cộng sản. Anh đặt tay lên bụng mình nói: “Ở đây này!”. Lưng anh đầy những vết dao chém của lũ giặc. Tnú đã bất khuất hiên ngang, trung thành vô hạn với cách mạng. Anh có bao giờ quên lời cụ Mết dạy: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn!”.
- Sau 3 năm bị tù ở ngục Kông Tum, Tnú vượt ngục trở về làng. Cả làng vui mừng đón anh ở nhà ưng. Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết cho cả làng nghe. Lần thứ hai anh lại đi ba ngày lên núi Ngọc Linh, không lấy đá trắng làm phấn mà mang về một gùi nặng đá mài. Cả làng Xô Man, ngày thì phát rẫy, đêm đêm mài vũ khí. Tnú trở thành chỉ huy đội du kích. Với lũ giặc, với thằng Dục ác ôn thì Tnú là “con cọp” nếu không giết sớm, nay nó làm loạn rừng này rồi!.
Nguyễn Trung Thành đã đặt nhân vật vào một tình huống khốc liệt nhất để tô đậm tính cách anh hùng của Tnú. Thằng Dục kéo một tiểu đội về làng Xô Man. Ngọn roi của giặc không từ một ai. Tiếng kêu khóc dậy làng. Xảo quyệt, nham hiểm, thằng Dục bắt mẹ con Mai, với âm mưu bắt “cọp cái và cọp con” để “dụ cọp đực”! Mẹ con Mai bị đánh chết bằng trận mưa cây sắt. Chỉ có hai bàn tay không, Tnú nhảy xổ vào lũ giặc để cứu vợ con. “Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Anh nguyền rủa lũ giặc là “Đồ ăn thịt người!”. Hai mắt Tnú là “hai cục lửa lớn”. Tnú bị giặc bắt, trói bằng dây rừng. Thằng Dục ác ôn đã dùng giẻ tẩm nhựa xà nu tra tấn anh. Mười ngón tay Tnú đã thành mười ngọn đuốc. Lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng! Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Tnú “cắn nát môi” chịu đựng. Tnú lẫm liệt hiên ngang “không thèm kêu van!”. Khí phách hiên ngang bất khuất của Tnú như một khúc tráng ca anh hùng mang màu sắc sử thi thần kì.
b. Tnú có một trái tim sục sôi căm giận và yêu thương.
- Cụ Mết và đội du kích tràn lên nhà ưng giết hết sạch bọn ác ôn, cứu sống được Tnú. Vết thương lành, ngón nào cũng cụt một đốt, nhưng Tnú còn cầm được giáo, bắn súng được, anh lại đi tìm cách mạng, gia nhập Giải phóng quân, đi tìm Mỹ - Diệm, để trả thù cho mẹ con Mai, cho bà con làng Xô Man. Anh đã xông xuống hầm ngầm đồn giặc, không dùng súng, không dùng dao, mà dùng hai bàn tay, mười ngón tay cụt bóp cổ thằng chỉ huy! Với Tnú, “chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục!”. Tnú ra đi đánh giặc với ý thức “Đi trả thù mà không sợ dài lâu!” (“Đất Nước” - Nguyễn Khoa Điềm).
- Nguyễn Trung Thành đã miêu tả nhịp chày giã gạo nói lên thật xúc động tình yêu làng của Tnú. Từ xa, anh đã nhận ra “tiếng chày dồn dập của làng anh”. Đã 3 năm nay, “nỗi nhớ day dứt lòng anh chính là tiếng chày đó”, tiếng chày “chuyên cần rộn rã” của mẹ anh xa xưa, của những người đàn bà và những cô gái Strá, của Mai và Dít, “từ ngày lọt lòng anh ta đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi”. Vì căm giận mà Tnú đi đánh giặc, vì yêu thương, vì nhớ làng, nhớ tiếng chày giã gạo nơi chôn nhau cắt rốn mà anh trở về thăm làng, chỉ một đêm thôi, rồi anh lại ra đi với bao lưu luyến.
c. Tnú là người anh hùng của bộ tộc, của quê hương.
- Số phận và cuộc đời đau thương, bất khuất của Tnú gắn liền với vận mệnh sống còn của dân làng Xô Man, là niềm tự hào của quê hương. Như cụ Mết già làng đã nói: “Nó đấy! Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
- Tnú là một nhân vật điển hình cho số phận và con đường của nhân dân trong cuộc chiến đấu vì tự do, vì thống nhất Tổ quốc. Nhân vật Tnú đã tô đậm màu săc sử thi huyền thoại truyện “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.
3. Mối quan hệ giữa thiên nhiên với con người.
- Rừng xà nu, đồi xà nu, cây xà nu, lửa xà nu được miêu tả và khắc họa trong mối quan hệ chặt chẽ với con người. Cùng tồn tại, cùng đau thương, cùng tổn thất, cùng nhục cùng vinh (“Rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”; Cụ Mết già làng “ở trần ngực căng như một cây xà nu lớn”; những lưỡi mác, cây rựa sáng loáng, xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa xà nu lớn trên nhà ưng, v.v).
- Vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp cao cả, trong sáng của tâm hồn, vẻ đẹp bất khuất, hiên ngang của chí khí con người tạo nên chất thơ trữ tình, chất anh hùng ca tráng lệ thấm đẫm tác phẩm "Rừng xà nu".
- Thể hiện thế trận chiến tranh nhân dân vô địch của núi rừng và các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mĩ.
C. Kết bài.
- Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, là một trong những trang văn xuôi hay nhất viết về cây cỏ trong nền văn xuôi Việt Nam thời hiện đại.
- Câu chuyện về cuộc đời và hình ảnh của Tnú, của bao dũng sĩ làng Xô Man đã tái hiện không khí bi hùng của một giai đoạn lịch sử đánh Mỹ thắng Mỹ đầy tự hào của dân tộc.
- “Rừng xà nu” là một truyện ngắn đặc sắc nhất viết về đề tài Tây Nguyên. Nó là biểu tượng chủ nghĩa anh hùng cách mạng, kết tinh giá trị nghệ thuật cao, sáng ngời tính sử thi làm rung động lòng người. Nó là “câu chuyện một đời được kể trong một đêm” của một dân tộc, một thời đại oanh liệt và bi tráng.
Bài làm (Câu 2)
“Mặt đường khát vọng” là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ, tại chiến trường Trị - Thiên - một điểm nóng - trên chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc động, tự hào về đất nước và nhân dân. Trong bài “Có một thời đại mới trong thi ca”, Trần Mạnh Hảo viết:
“Vào đêm giao thừa  Tết âm lịch 1973 - 1974, dưới rừng Phước Long, chúng tôi xúc động nghe trích đoạn “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm phát trên Đài phát thanh. Những suy nghĩ về đất nước, về dân tộc đã được nhà thơ hiện đại hoá bằng chất suy tư lắng đọng và cảm xúc mãnh liệt”.
“Đất Nước” - là chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” dài 110 câu thơ (trong “Văn 12” chỉ trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận của nhà thơ trẻ về Đất Nước trong cội nguồn sâu xa văn hóa - lịch sử, và trong sự gắn bó thân thiết với đời sống hằng ngày của mỗi con người Việt Nam. Phần thứ hai, cảm hứng chủ đạo về Đất Nước là sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. Từ đó, nhà thơ nhận diện phát hiện Đất Nước trên bình diện về địa lý, lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tinh thần dân tộc - nền văn hiến Việt Nam. Vẻ đẹp độc đáo của chương V “Đất Nước” là tác giả vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hoá dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục, cùng với cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc.
Mười ba câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất nước” thể hiện cảm nhận: Đất Nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt nam:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
()
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
Trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”, hai từ Đất Nước và Nhân Dân đều được viết hoa, trở thành “mĩ tự” gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về Đất Nước và Nhân Dân. Chủ thể trữ tình là “anh và em”, giọng điệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào. Cấu trúc đoạn thơ 13 câu thơ là cấu trúc tổng - phân - hợp mà ta cảm nhận được tính chất chính luận của ngòi bút thơ Nguyễn Khoa Điềm.
1. Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lý về cội nguồn, về truyền thống, về lịch sử, Đất Nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”.
Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của Đất Nước” được diễn đạt một cách “mềm hóa” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của “anh và em”.
2. Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người”, từ “hôm nay” đến “ngày mai” và muôn đời mai sau.
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”.
Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất Nước là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm - Đất Nước là nơi ta hò hẹn - Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây dựng. Gia đình là “một phần” của Đất Nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm” với tình yêu quê hương Đất Nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đằm về nỗi “nhớ”:
“Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”.
Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước, mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”, mới tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em, của bao lứa đôi khác:
“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị đòn roi.
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi”.
(Giang Nam)
Nói về cội nguồn của giòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự tích “Trăm trứng”: “Đất là nơi Chim về - Nước là nơi Rồng ở - Lạc Long Quân và Âu Cơ - Đẻ ra đồngbào ta trong bọc trứng - Những ai đã khuất - Những ai bây giờ”. Từ huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:
“Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên, là yêu thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào, Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có hình ảnh “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hòa, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước. Đất Nước được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, “Người trong một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.
Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai đứa cầm tay” “Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất Nước hài hoà nồng thắm”. “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”. Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này. Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch, hài hòa, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình yêu lứa đôi, tổ ấm hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nên truyền thống “yêu nước, yêu nhà, yêu người” và đó là sức mạnh Việt Nam.
Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh và em hôm nay”, đất nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.
Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải, cũng có một giọng điệu riêng “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng “mai này” là cách nói của bà con xứ Huế.
Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước để lại” xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp, ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh. Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này” gần.
Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
“Em ơi em” - một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất Nước là máu xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất Nước là máu xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:
“Nuôi lớn người từ ngày mở đất,
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”.
(“Bài thơ của một người yêu nước mình” 19/12/1967)
Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biểu hiện của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó và san sẻ phải biết hóa thân” thì mới có thể “Làm nên Đất Nước muôn đời”. Điệp ngữ “phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động. Có biết trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ” như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.
Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô đậm bằng nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cảm hứng về đất nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đẫm dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang cảm xúc sâu nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất nước:
“Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất”
(Trần Vàng Sao)
“Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.
(Chế Lan Viên)
Trở lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất nước thân thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất nước muôn đời”. Đoạn thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai Đất nước và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình hàm ẩn tính công dân của thời đại mới. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh, thể hiện một hồn thơ giàu chất suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tòi.
“Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình” - một tứ thơ rất đẹp! Một tứ thơ lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hòa bình phải biết đem “trí lực” để xây dựng Đất Nước, “làm nên Đất Nước muôn đời”, Đất nước “to đẹp hơn đàng hoàng hơn”. Lúc có chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn Sông núi. “Gắn bó, san sẻ, hóa thân” cho Đất Nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng, ấy là tình yêu Đất Nước của “anh và em” hôm nay, của thế hệ Việt Nam “Mai này con ta lớn lên”
ST

Tài liệu đính kèm:

  • docCHUYEN DE VAN 12 P.4.doc