Đề 5: Bình giảng “Các vị La Hán chùa Tây Phương” – Huy Cận
* BÀI LÀM
* Nghệ thuật miêu tả các pho tượng
Phong cách riêng của Huy Cận: “Sự gắn bó của cảm xúc với những suy tưởng, triết lý”.
Được khơi dậy từ những cảm xúc trước các pho tượng ở chùa Tây Phương, bài thơ
không phát triển theo hướng triết lý về Phật giáo, cũng như nhân thế nói chung cảm nghĩ
và bình luận lịch sử về những đau khổ bế tắc của một thời đại quá khứ – thời đại mà các pho
tượng được sáng tạo.
Chủ đề 12: LÝ LUẬN VĂN HỌC Đề 5: Bình giảng “Các vị La Hán chùa Tây Phương” – Huy Cận * BÀI LÀM * Nghệ thuật miêu tả các pho tượng Phong cách riêng của Huy Cận: “Sự gắn bó của cảm xúc với những suy tưởng, triết lý”. Được khơi dậy từ những cảm xúc trước các pho tượng ở chùa Tây Phương, bài thơ không phát triển theo hướng triết lý về Phật giáo, cũng như nhân thế nói chung cảm nghĩ và bình luận lịch sử về những đau khổ bế tắc của một thời đại quá khứ – thời đại mà các pho tượng được sáng tạo. → Huy Cận từ chỗ đứng trong thời đại, theo tác giả, về căn bản đã giải tỏa được những đau khổ của con người và những bế tắc của lịch sử – mà nhìn lại để đồng cảm, xót thương, trân trọng với cha ông trong quá khứ. Ý nghĩa phổ quát về nhân sinh mà các pho tượng này gợi lên lại được quy vào ý nghĩa phản ánh hiện thực thời đại của các tác phẩm điêu khắc này. Do đó, việc xác định của pho tượng chùa Tây Phương là tượng A La Hán hay tượng 18 vị tổ của phái Thiền Tông, cũng không có ý nghĩa quan trọng quyết định đối với việc cảm thụ và phân tích bài thơ của Huy Cận. Bởi lẽ, với tác giả, các hình tượng những con người trên đường tu tới “Phật” này thực ra chỉ là hình ảnh sống động của những đau khổ và bế tắc của con người trong một thời đại lịch sử cụ thể. Bài thơ kết cấu theo cách đi từ những quan sát, miêu tả cụ thể với cảm xúc và suy tưởng về các pho tượng đến việc cảm nhận và bình luận về một thời đại lịch sử cuối cùng là liên hệ đối chiếu xưa – nay. * Phần đầu của bài thơ (gồm 8 khổ, 32 câu): miêu tả các pho tượng và cả nhóm tượng, đây là phần đạt nhất của bài thơ. Cần tập trung phân tích. - Khổ thơ đầu nói những vương vấn, ám ảnh, cái ấn tượng chung của tác giả sau khi thăm các pho tượng chùa Tây Phương. Ba khổ tiếp theo đặc tả bằng lối “quay cận cảnh” ba pho tượng với những dáng vẻ, tư thế rất khác nhau, tiêu biểu cho cả quần thể tượng. Đây vị xương trần chân với tay Cớ chi thiêu đốt tấm thân gầy Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt Tự bấy ngồi y cho đến nay. Ở pho tượng thứ nhất, bằng những nét đặc tả gầy guộc, khô héo của thân hình (xương trần chân với tay, tấm thân gầy, sâu vòm mắt) cùng tư thế bất động (Tự bấy ngồi y cho đến nay) trong dáng trầm ngâm đau khổ, những câu thơ đã biểu hiện được sức mạnh nung nấu của nội tâm đến nỗi thiêu đốt cả hình hài: nhà tu hành mãi sống với những suy nghĩ mà quên cả thể xác, trong một hình thể vật chất thu nhỏ chứa đựng được sự rộng lớn và sâu xa của tư tưởng, tâm linh. Xương phơi trần trụi, tưởng như có thể bốc lửa vì quá khô. Lửa bên trong đã thiêu đốt hết thịt Cặp mắt chỉ nhìn bên trong. - Mô tả bức tượng thứ hai, tác giả lại thấy được nhà nghệ sĩ điêu khắc đã dùng những đường nét chuyển động mạnh mẽ của hình thể để diễn tả những vận động sôi sục, dữ dội của nội tâm. Hàng loạt động từ và hình ảnh diễn tả trạng thái căng thẳng dồn nén của cơ thể, đặc biệt là khuôn mặt “Mắt giương, mày nhíu xệch, trán như nổi sóng biển luân hồi, môi cong chua chát tâm hồn héo, gân vặn bàn tay, mạch máu sôi” thể hiện những suy nghĩ nung nấu, trăn trở dữ dội của tư tưởng như muốn đứt tung, vọt trào ra khỏi thân xác con người, đồng thời cũng thấy sự bế tắc vô phương giải thoát. Bốn câu thơ giàu chất tạo hình, sống động như là chạm khắc bằng lời, quả là một tác phẩm điêu khắc bằng thơ. - Ở pho tượng thứ ba, trong cái tư thế lạ lùng “chân tay co xếp lại, tròn xoe tựa thể chiếc thai non”. Dường như hoàn toàn cách biệt với cuộc sống bên ngoài, tác giả lại đặc tả đôi tai dài rộng khác thường đón nhận những tiếng dội mọi nỗi đau khổ của chúng sinh (theo quan niệm xưa, đôi tai to và dày được coi là một nét tướng mạo của Phật). * Sau khi đặc tả ba pho tượng, tác giả gom chung cả quần thể tượng. Ở đây dùng bút pháp tả bao quát kết hợp với suy tưởng bình luận. Đây là “ cuộc họp lạ lùng trăm vật vã”, là hội tụ của những khổ đau, trăn trở, quằn quại ở cao điểm của nó, thời điểm mà “bấy nhiêu quằn quại run lần chót”. Cũng từ các bức tượng này, háy lên những khát vọng giải thoát, truy tìm nhức nhói lời giải đáp và đồng thời cũng có thể biểu hiện sự bế tắc, bất lực tột độ. Câu thơ có sức khái quát cao và suy tưởng sâu nhưng không thoát li hình ảnh các bức tượng: “Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau Quay theo tám hướng hỏi trời sâu Một câu hỏi lớn. Không lời đáp Cho đến bây giờ mặt vẫn chau” Tác giả của “Lửa thiêng” những năm trước Cách mạng tháng Tám, đã từng mang nỗi đau đời, nỗi sầu nhân thế và cả những tìm tòi bế tắc, siêu hình, vì thế mà sự cảm nhận và suy tưởng về các pho tượng chùa Tây Phương còn lại là một sự đồng cảm thấm thía qua trải nghiệm của chính mình. * Tuy có những nhược điểm – (ở phần sau bài thơ: ít gắn với trực tiếp cảm xúc, biện luận lịch sử hơi dài dòng), bài thơ vẫn là một trong những tác phẩm trội nhất của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám. Trên cái nền cảm xúc tinh tế trầm lặng, nhà thơ hướng tới những suy tưởng khái quát, những suy ngẫm triết lý. Suy tưởng được bắt nguồn từ những quan sát chi tiết và cảm xúc trực tiếp, những cái hữu hạn hữu hình mà mở tới những niềm bao la của tâm tưởng Sự suy nghĩ trong thơ Huy Cận không có dạng sắc sảo, đập mạnh vào trí tuệ, mà thường là thâm trầm, bàng bạc như chất men thấm dần, trong một âm điệu thơ khoan thai, trầm lắng, có khi thanh thoát nhẹ nhàng.. * * *
Tài liệu đính kèm: