Văn học phương tây thế kỷ XVIII (văn học ánh sáng)

Văn học phương tây thế kỷ XVIII (văn học ánh sáng)

I.Khái quát

Thế kỷ XVIII đánh dấu một bước chuyển mình quan trọng trong quá trình phát triển của các nước phương Tây. Nó tồn tại trong lịch sử với cái tên đẹp là thế kỷ Ánh sáng. Văn học ánh sáng châu Âu đã đóng góp cho đời nhiều cây bút tên tuổi như Defoe, Swift, Montesquieu, Voltaire, J. J. Rousseau, Diderot, Schiller, Goethe . . .

1.Ðặc trưng lịch sử xã hội Phương Tây thế kỷ XVIII

Chế độ phong kiến tồn tại ở Phương Tây trong một thời gian dài, cho đến thế kỷ XVIII đã trở thành một chướng ngại cho sự phát triển của xã hội. Giai cấp tư sản lớn mạnh dần và mâu thuẩn giữa tư sản với phong kiến ngày càng gay gắt đây là thời kỳ cuộc đấu tranh chống phong kiến diễn ra trên toàn châu Âu. Sau cách mạng tư sản Anh giữa thế kỷ XVII là cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỷ XVIII. Thế kỷ XVIII ở phương Tây trở thành cái mốùc quan trọng đánh dấu thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và thắng lợi của cách mạng tư sản trên qui mô rộng lớn.

 

doc 25 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 12433Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Văn học phương tây thế kỷ XVIII (văn học ánh sáng)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY THẾ KỶ XVIII (VĂN HỌC ÁNH SÁNG) 
I.Khái quát
Thế kỷ XVIII đánh dấu một bước chuyển mình quan trọng trong quá trình phát triển của các nước phương Tây. Nó tồn tại trong lịch sử với cái tên đẹp là thế kỷ Ánh sáng. Văn học ánh sáng châu Âu đã đóng góp cho đời nhiều cây bút tên tuổi như Defoe, Swift, Montesquieu, Voltaire, J. J. Rousseau, Diderot, Schiller, Goethe . . . 
1.Ðặc trưng lịch sử xã hội Phương Tây thế kỷ XVIII 
Chế độ phong kiến tồn tại ở Phương Tây trong một thời gian dài, cho đến thế kỷ XVIII đã trở thành một chướng ngại cho sự phát triển của xã hội. Giai cấp tư sản lớn mạnh dần và mâu thuẩn giữa tư sản với phong kiến ngày càng gay gắt đây là thời kỳ cuộc đấu tranh chống phong kiến diễn ra trên toàn châu Âu. Sau cách mạng tư sản Anh giữa thế kỷ XVII là cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỷ XVIII. Thế kỷ XVIII ở phương Tây trở thành cái mốùc quan trọng đánh dấu thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến và thắng lợi của cách mạng tư sản trên qui mô rộng lớn. 
2.Ý nghĩa của phong trào Ánh sáng 
Chế độ phong kiến kết hợp với chính sách ngu dân của giáo hội đã kìm hảm con người trong vòng ngu tối. Các triết gia, các nhà tư tưởng, nhà văn của thế kỷ XVIII đã dấy lên phong trào đề cao lý trí, dùng ánh sáng của lý trí để xua tan bóng tối, giải phóng tư tưởng, mở mang trí tuệ cho con người. Aùnh sáng của lý trí soi khắp các lĩnh vực chính trị, tôn giáo, nghệ thuật, giáo dục, triết học, pháp luật . . . và trở thành một vũ khí chống phong kiến sắc bén. Công trình đồ sộ Bách khoa toàn thư do Diderot lãnh đạo việc biên soạn là một biểu hiện tập trung của phong trào.Do đó mà xuất hiện thuật ngữ Aùnh sáng. Anghen đánh giá các nhà văn Pháp thế kỷ XVIII là: Những vĩ nhân soi sáng đầu óc con người để chuẩn bị cho cuộc cách mạng sắp bùng nổ. 
Thuật ngữ Ánh sáng chỉ vai trò tiến bộ lịch sử của giai cấp tư sản so với chế độ phong kiến già cổi, gợi lên sự so sánh giữa ánh sáng và bóng tối. Văn học Aùnh sáng của mỗi nước có đặc điểm riêng. Trong phạm vi này chỉ đề cập đến văn học của 3 quốc gia tiêu biểu: Pháp, Anh và Ðức. 
II.Văn học Pháp thế kỷ XVIII 
Thế kỷ XVIII ở Pháp là nơi tập trung mâu thuẫn gay gắt nhất, quyết liệt nhất giữa tư sản và phong kiến, dẫn đến cuộc cách mạng dân chủ tư sản bùng nổ vào cuối thế kỷ, năm 1789. 
Về phương diện xã hội, nước Pháp lúc này chia thành 3 đẳng cấp: Tăng lữ, quý tộc và bình dân mà lực lượng đứng đầu đẳng cấp thứ 3 lúc bấy giờ là tư sản. Do đó tính chiến đấu của giai cấp tư sản thời kỳ này còn mạnh mẽ, còn là đại diện chân chính cho đẳng cấp và là người nói lên tiếng nói của đẳng cấp. 
Về văn hóa tư tưởng văn học Pháp thời kỳ này phát triển theo xu hướng của thời đại, với nội dung và hình thức mới đánh dấu bước ngoặc so với thế kỷ XVIII. Văn học Aùnh sáng vừa tiếp thu vừa phủ định nền văn học cổ điển. Văn học được xem như một vũ khí trong cuộc đấu tranh xã hội. Tính chất chống phong kiến là đặc trưng nổi bật của văn học Pháp thời kỳ này, thể hiện trong việc phê phán xã hội mục nát, bất công, nỗi khốn khổ của nhân dân . . . 
Văn học Ánh sáng Pháp chia làm 4 thời kỳ phát triển: 
1/ Thời kỳ 1: Từ đầu thế kỷ đến 1715 giai đoạn báo hiệu thời đại mới, manh nha tinh thần chống phong kiến và giáo hội bắt đầu từ cuối thế kỷ trước. Các tên tuổi của thời kỳ này như : Fénelon, Fontenelle... 
2/ Thời kỳ 2: 1715-1750 là giai đoạn đặt nền móng vững chắc cho phong trào Aùnh sáng, với các tên tuổi như : Voltaire, Montesquieu . . . 
3/ Thời kỳ 3 :1750-1789 Giai đoạn sôi nổi nhất với sự xuất hiện của BaÙch khoa toàn thư, các tên tuổi như : Diderot, J.J Rousseau . . . 
4/ Thời kỳ 4 :Từ 1789-1799 Thời kỳ phát triển mạnh của loại văn chương báo chí, hùng biện, xu hướng tìm cảm hứng từ văn học cổ đại. 
*Các tác giả và tác phẩm tiêu biểu: 
1. Montesquieu(1689-1755) 
Montesquieu không phải là một nhà văn lớn nhất của thế kỷ Aùnh sáng, nhưng ông lại là người đặt nền tảng cho nền văn chương chính trị ở pháp. Ông cũng là người đầu tiên đã hình thành được những nguyên tắc cơ bản của phong trào Aùnh sáng Pháp, có giá trị dẫn đường cho cả thế kỷ của mình, mặc dù ông cá nhiều hạn chế so với các tên tuổi như Voltaire, Diderot... 
Montesquieu thuộc dòng dõi qúi tộc nhưng sa sút. Cha mẹ mất sớm, ông được chú nuôi và sau này ông đã thừa hưởng tước vị của chú, là nam tước De Montesquieu. Ông là một người điềm đạm, thiên về lý trí. Năm 1716, ông trở thành chủ tịch nghị viện Bordeaux. Chức vụ và nghề nghiệp không làm ông hết say mê khoa học và văn chương. Nhiệt tình nghiên cứu khoa học và lòng khát khao hiểu biết của Montesquieu trên khắp các lĩnh vực, mang đậm tính chất duy lý và thế tục của ông trong thời kì này đã báo hiệu trước nền triết học Aùnh sáng tương lai. Năm 1721 tài năng Montesquieu bộc lộ trong tác phẩm Những bức thư BaTư rất được hoan nghênh và tái bản nhiều lần. Sau đó là sự ra đời của Tinh thần pháp luật, tác phẩm lớn nhất của Montesquieu, bên cạnh một tác phẩm nổi tiếng khác: Suy nghĩ về thịnh và suy của người La Mã. 
Những bức thư Ba Tư là một sự kiện văn học lớn thời bấy giờ. Ðược xuất bản ở Amsterdam năm 1721, là một tiểu thuyết bằng thư gồm có cả 164 bức, nội dung là cuộc trao đổi tin tức, nhận định, giữa Udơbêch, một quý tộc Ba Tư đi du lịch Châu Âu để tìm hiểu văn hóa các nước. Các cung phi của ông được giao cho bọn hoạn quan canh giữ. Udơbêch và bạn đồng hành là Rica thường xuyên trao đổi thư từ với bạn bè trong nước, bàn bạc, nhận xét về nền văn minh Châu Âu dưới triều Louis XIV. Xen vào đó là các thư từ với bọn hoạn quan về tình hình hậu cung và hạnh kiểm của các cung phi từ ngày Udơbêch ra đi. Các cung phi đã tìm cách tư tình với những người đàn ông khác, không ai chung thủy, ngay cả nàng Roxcan mà bọn hoạn quan tưởng là đứng đắn nhất. 
Hai bình diện rõ rệt trong những bức thư Ba Tư là tình hình xã hội phương Tây và tình hình nơi hậu cung của Ba Tư, được dựng lên với mục đích đối chiếu hai nền văn minh phương Ðông và phương Tây. Qua đó ta thấy triều đình Phong kiến Pháp với những tiêu cực của vua quan, để thấy chế độ Phong kiến đã lỗi thời và lạc hậu, cần phải được thay thế. R.Lophe đã đánh giá Những bức thư Ba Tư không phải là một thiên luận văn mà là một cuốn tiểu thuyết đặc sắc. Nhưng cũng có thể nói thêm: Là một cuốn tiểu thuyết đồng thời cũng là một luận văn xuất sắc. 
2. Voltaire(1694-1778) 
Voltaire tên thật là Fralcois Marie Arouet, là nhà thơ, nhà soạn kịch, nhà triết học, nhà tư tưởng , nhà sử học và còn là nhà hoạt động xã hội sôi nổi. Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của ông đã góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng của thế kỉ Ánh sáng Pháp. Vì vậy thế kỉ này còn gọi là thế kỉ Voltaire. 
Sinh tại Châtenay trong một gia đình khá giả, Voltaire theo học tại trường Louis Le Grand mà sau này ông đã kịch liệt lên án nền giáo dục vô bổ, xa rời thực tế mà ông đã tiếp nhận. Tới tuổi trưởng thành ông làm việc tại tòa án nhưng ông không quan tâm đến ngoại giao và cũng chẳng thiết tha gì đến luật pháp. Ông mơ ước trở thành thi sĩ và bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng những bài thơ trào phúng. Năm 1716, ông bị trục xuất khỏi Paris vì những bài thơ châm biếm đạo đức của nhiếp chính vương Philipe DOrléan lúc bấy giờ. Sau đó ông lại bị giam vào ngục Bastille. Tại đó ông đã sáng tác vở bi kịch đầu tiên và lấy bút danh Voltaire. Ông lại xích mích với bọn quý tộc và bị đày khỏi Paris 50 dặm.Ông đi luôn sang Anh và bắt đầu sự nghiệp sáng tác rực rỡ, phong phú, đồ sộ của mình. 
Sang Anh, Voltaire học hỏi được rất nhiều về triết học, tư tưởng khoa học . . . Ông có những ấn tượng tốt đẹp về nước Anh. Trở về Pháp, ông cho ra đời nhiều tác phẩm, trong đó có Những bức thư triết học (1734), gây chấn động dư luận. Voltaire phải trốn nhà cầm quyền và sống nhờ tại lâu đài của bà Du Châtelet. Ông trải qua 10 năm ở đây dưới sự bảo trợ của bà này và sáng tác rất nhiều về đủ mọi thể loại: triết học, bi kịch, hài kịch, là những lãnh vực mà ông ưa thích nhất. 
Năm 1744 triều đình Pháp lại dàn hoà với Voltaire. Ông giữ chức sử quan và 1776 được bầu vào Hàn Lâm Viện. Sau ba năm hăng hái, ông lại thất vọng , chán nản và bỏ triều đình. 
Năm 1750 ông kết thân với vua Phổ Féredic II và nhận lời mời đến Potxdam. Nhưng ông chỉ hài lòng với vài ngày đầu tiên sống trên nước Phổ vì cho rằng nhà vua là một minh quân biết trọng hiền tài. Nhưng ông đã lầm. Ông lại mâu thuẫn với vua và trở về nước. 
Voltaire không dám trở về Paris, ông sống lang thang mấy năm ở vùng Alsace, Lorraine rồi đầu năm 1755 ông đến Thụy Sĩ, mua một ngôi nhà ở gần Genève và trú ngụ tại đó. Trong giai đoạn này ông sáng tác các truyện triết học nổi tiếng : Zadid hay Số Mệnh (1747), Candide hay Chủ nghĩa lạc quan (1759) và một số kịch. 
Cuối đời, ông sống tại thái ấp Ferney gần bên giới Pháp - Thụy Sĩ. Ôâng vẫn sáng tác và trao đổi thư từ với bạn bè. Ông tiếp tục sáng tác truyện triết học, trong đó có Chất Phác (1647), và một số kịch. 
Tháng hai 1778 ông bất chấp lệnh cấm trở về Paris và được quần chúng đón tiếp trọng thể. Ðã 84 tuổi, Voltaire còn giúp Viện Hàn Lâm soạn quyển từ điển ngôn ngữ Pháp. Nhưng chưa kịp làm thì ông mất. Ðến năm 1791 ông được cải táng vào nghĩa trang Panthéon, với dòng chữ ghi trên mộ: Người đã chuẩn bị cho chúng ta đi đến tự do. 
Voltaire được biết đến ở nhiều khía cạnh: nhà thơ, nhà triết học, tiểu thuyết, kịch . . . Truyện triết học của Voltaire là một bộ phận nổi tiếng trong sự nghiệp của Voltaire. 
Trong truyện triết học của ông, chế độ phong kiến đương thời bị phê phán nghiêm khắc với triều đình tham nhũng đầy tệ nạn, tôn giáo với những tín điều mù quáng, bọn thầy tu dâm đãng và cuồng tín, nhũng học thuyết lừa bịp và phản động như : Thuyết hài hòa tiền định. Một vấn đề lớn của triết học xuyên suốt tác phẩm của Voltaire là vấn đề cái ác trong xã hội. 
Zadig hay Số Phận là câu chuyện của một chàng thanh niên Babylon có phẩm chất đạo đức và thông minh, chân thật nhưng chàng lại gặp nhiều chuyện không may: người yêu phụ bạc do chàng thử lòng mà biết, bị luật pháp phạt vạ vô cớ. Khi may mắn được lên làm tể tướng và thực hiện nhiều việc ích nước lợi dân thì lại bị nhà vua ghen tuông hảm hại, phải trốn ra nước ngoài. Chàng lại bị bán làm nô lệ, giúp một ông vua thử lòng người để tuyển chọn quan chức thanh liêm. Cuối cùng chàng quay về Babylon, thắng các cuộc thi đấu và lên làm vua.
Bằng hình thức nhẹ nhàng, phong cách trào phúng xen lẫn bút pháp hoang đường kỳ ảo, tác phẩm đã thể hiện tư tưởng triết học Aùnh sáng, tố cáo các tệ nạn của xã hội phong kiến. Tác phẩm bác bỏ thuyết Hài hòa tiền định, chứng minh rằng hạnh phúc đạt được là do tài năng và đạo đức chứ không phải do số mệnh. 
Candide hay Chủ nghĩa lạc quan là câu chuyện một chàng thanh niên gốc quý tộc tỉnh lẻ, tính tình ngay thật, trung hậu. Chàng được nuôi dưỡng trong môi trường quý tộc, bị nhồi sọ bởi tư tưởng Hài hòa tiền định của vị gia sư Pangloss. Nhưng nhiều hoàn cảnh, biến cố, tai họa đã xảy ra để chứng minh rằng quan niệm mọi sự đều hoàn hảo trong thế giới hoàn hảo là vô bổ và sai lầm. Cuối cùng chàng tìm ra hạnh phúc từ việc quan sát và thực hiện cuộc đời giản dị của một người lao động chăm bón khu vườn của mình, nghĩa là tìm hạnh phúc trong lao động chân chính. 
Với Candide, Voltaire đã hoàn toàn m ... hết được những ý vị thâm trầm. 
VĂN HỌC CỔ ÐẠI HY LẠP 
I. NƯỚC HY LẠP CỔ ÐẠI 
1. Ðịa lý 
Nằm ở phiá nam Châu Âu, trên bán dảo Balcan, đông giáp biển Egée, tây bắc giáp Albanie, đông nam giáp Thổ Nhĩ Kỳ, bắc giáp Nam tư và Bulgarie. Diện tích 133.000 km2¬, thủ đô là Athène ( Nhã Ðiển). 
Hy Lạp xưa rộng hơn, gồm 3 xứ: 
- Hy Âu: Ở miền nam bán đảo Balcan, có hơn 80% là núi, có vịnh Corinthe chia ra bốn phía: Bắc là dãy Pinde, tây là Eùpia, đông là bình nguyên Thessalie, nam là bán đảo Péloponèse có hình bàn tay với bốn ngón xòe gồm các vùng dất phì nhiêu. 
- Hy Á: Gồm những tỉnh dựng lên ở những bình nguyên hẹp ven bán đảo Tiểu Á. 
- Quần đảo và đảo: Biển Eùgée có nhiều đảo lớn hợp thành dãy đảo. Quan trọng nhất là đảo Crèce ở phía nam là trung tâm của nền văn minh tối cổ Crèce-Mycène. Bờ biển đông và tây bán đảo Balcan và Tiểu Á có hình răng cưa gồ ghề lởm chởm, có nhiều vịnh và hải cảng an toàn, thuận lợi cho sự phát triển hàng hải. 
Ðịa hình phức tạp đó của Hy Lạp đã ảnh hưởng lớn đến xu hướng phát triển của lịch sử xã hội Hy Lạp thời cổ đại. Trước hết là xu hướng phát triển ngành mậu dịch hàng hải của họ. Người Hy Lạp cổ đã biết lợi dụng mặt biển Eùgée phẳng lặng để đi rất xa ra khơi, đổ bộ lên các đảo và miền ven biển Tiểu Á hay vượt qua các eo biển Dardanien và Bospho lên tận miền Hắc Hải, hoặc vượt biển đi khắp các miền thuộc khu vực Ðịa Trung Hải như Tiểu Á, Ai Cập, Ý, Tây Ban Nha và Bắc Phi. 
Khí hậu ấm áp và trong lành, thiên nhiên đẹp đẽ muôn màu, cảnh bình nguyên nước xanh với màu da trời đã tạo tâm hồn thi sĩ cho người Hy Lạp. Ở vị trí phía Ðông Ðịa trung Hải gần gủi với các quốc gia cổ đại phương Ðông có nền văn minh lâu đời chính là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng của nền vản minh Hy lạp, khiến nó trở thành ngọn đuốc soi sáng vùng Ðịa Trung Hải. 
2 .Lịch sử:
Sự tan rã của xã hội thị tộc và sự hình thành nhà nước Hi Lạp. 
Nhà nước Hy lạp đã trực tiếp thoát thai dần dần từ chế độ công xã thị tộc. Sự phát triển kinh tế chính trị của các quốc gia thành thị (City States) là một thí dụ điển hình chứng tỏ tính tất yếu của quá trình chuyển biến từ chế độ công xã thị tộc sang chế độ nhà nước. Anghen viết: Lúc đó chỉ thiếu một cái thôi, đó là một cơ quan không những bảo vệ được của cải mà các tư nhân vừa mới có được khỏi bị những truyền thống cộng sản chủ nghĩa xâm phạm, mà còn kéo dài mãi quyền của các giai cấp hữu sản bóc lột giai cấp không có của. Và giai cấp đó đã xuất hiện: Nhà nước đã được phát minh.(Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước). 
Nhà nước Sparta (IX B.C.): Là một trong những quốc gia thành thị xuất hiện sớm nhất ở Hy lạp cổ đại. Người Sparta là giai cấp thống trị chủ nô.Nhà nước nay chủ yếu là do hậu quả của sự xâm nhập của những bộ lạc người Dorian. Bon họ thuộc giai cấp ăn bám và không tham gia lao động sản xuất. Công việc của họ là cai trị và đánh giặc. Họ đã đàn áp nhiều phong trào khởi nghĩa của dân nghèo thành thị và nô lệ cũng như phong trào dân chủ ngày càng lan ra ở nhiều thành bang Hy lạp.
Nhà nước Athène (VII- VI B.C.): Athène là một quốc gia thành thị ở bán đảo Altique thuộc trung bộ Hy Lạp thuận lợi cho sự phát triển hàng hải và công thương nghiệp. Nhà nước này ra đời trên cơ sở thống nhất toàn thể dân cư ở 4 bộ lạc dưới quyền quản lý chung của một cơ quan hành chánh duy nhất thay thế cho các cơ quan quản lý riêng rẽ cũ của các bộ lạc. Thời cực thịnh của Athène và của cả lịch sử Hy Lạp là thời kỳ trị vì của Périclès. Ông đã đề ra những cải cách quan trọng, cơ bản là quyền chính trị dân chủ được phổ biến khắp nơi. Ðứng về phương diện đông đảo quần chúng nô lệ và kiều dân mà nói thì nền dân chủ ấy cũng là nền dân chủ của chủ nô mà thôi. 
II.NỀN VĂN HÓA RỰC RỠ CỦA HY LẠP CỔ ÐẠI: 
Văn hóa Hy Lạp cổ đại đã đạt đến đỉnh cao của nó từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ thứ III TCN về các ngành: Văn học, Sử học, Thiên văn học, Ðịa lý, Số học, Vật lý, Y, Dược, Sinh vật học, Triết học . . . 
1. Về văn học: 
Hình thái văn học xuất hiện sớm nhất là dân ca. Có thể chia quá trình phát triển của văn học cổ đại Hy Lạp ra làm 3 thời kỳ: 
• Thời kỳ tối cổ: bắt đầu từ khi có văn học đến thế kỷ thứ V TCN 
• Thời cổ điển: từ chiến tranh Ba tư thế kỷ thứ IV đến tk III TCN 
• Thời kỳ cuối: từ tk III đến tk I TCN. 
Homère là người đầu tiên đặt nền tảng cho thể loại anh hùng ca với Iliade và Odyssée. Tiếp theo thơ trữ tình phát triển với sự trỗi dậy của ý thức cá nhân, tiêu biểu là hai nhà thơ Pindare và Sapho. 
- Pindare:(-522-440) Sinh ở Xi nô xê phan (Tebơ), thạo nhạc vũ, 20 tuổi đã nổi tiếng về thơ ca. Tác phẩm có bốn tập gồm những bài thơ ca ngợi những người anh hùng chiến thắng trong các đại hội điền kinh toàn Hy lạp (Olympe, Delphe, Isme, Mémée).Là một nhà thơ có tâm hồn lớn, khêu gợi lòng tự hào và ý chí thống nhất dân tộc. 
- Sapho:(-612-?) Sinh ở Mêtilem. Thuở còn trẻ phải trốn khỏi quê hương vì chống lại chế độ tiếm vương của Pitacus. Lúc trở về thơ ca của bà được người đương thời chú ý và tặng cho danh hiệu là nữ thần thơ ca thứ 10. Khác với Pindare, thơ ca của bà không lấy đề tài thời sự bên ngoài mà nói lên những khát vọng say sưa thuộc thế giới nội tâm. Thi hứng của bà có cái dằn vật của người đàn bà khao khát tình yêu, người đương thời gọi thơ của bà là những vần thơ say đắm. 
Vào thế kỷ IV dưới chính sách khuyến khích văn nghệ của Périclès, nền văn học nghệ thuật của Hy Lạp đạt tới đỉnh cao. Athène không chỉ là trung tâm chính trị mà lại còn là thủ đô văn hóa của toàn cỏi Hy Lạp. Thời kỳ này nhiều thể loại mới ra đời: Bi kịch, Hài kịch, văn chương hùng biện, Văn chương triết học. 
Bi kịch có mầm mống từ trước nay mới thực sự ra đời với tên tuổi của Eschyle. Bi kịch đạt đến chỗ phát triển hoàn chĩnh với tài năng của Sophocle và sau đó chuyển sang một hướng mới qua sáng tác của Euripide. Bi kịch là thành công chủ yếu, tiêu biểu nhất của nền văn học cổ đại Hy Lạp và cũng là vinh dự lớn lao của Hy Lạp, đất nước đã khai sinh ra một loại hình văn học mới trong lịch sử văn học nhân loại. 
2 Những nguyên nhân thành tựu: 
2.1. Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp phát triển khá hoàn hão. Nó đã mở ra một sự phân công trong xã hội tạo sự cách biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Nô lệ đảm đương tất cả mọi việc. Trí thức, quý tộc, chủ nô thoát ly lao động, có thì giờ và điều kiện để nghiên cứu triết học, khoa học, sáng tác văn học nghệ thuật. Do đó có thể nói nếu không có lao động của nô lệ thì cũng không có nền văn minh cổ đại Hy Lạp. Không phải nô lệ không có khả năng sáng tạo văn học, những lao động của họ đã tích lũy vô vàn kinh nghiệm, tạo điều kiện cho sự phát triển của nền văn học Cổ đại Hy lạp. Tài năng của họ đã bị quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ vùi dập. 
2.2. Trước khi có văn học viết nhân dân Hy Lạp đã có một pho thần thoại phong phú, hoặc để giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, con người, hoặc để nói lên khát vọng của những con người Cổ đại, hay để ca ngợi thành quả lao động của những người anh hùng Từ đó các ca sỹ dân gian dựng lên thành các bài hát. Về sau Homère dựa trên những bài hát ấy để xây dựng hai thiên anh hùng ca bất hủ và đó cũng là loại hình văn học đạt đến trình độ hoàn chỉnh đầu tiên của nhân loại. 
2.3. Cùng với sự phát triển của chế độ tư hữu trong thời kỳ chế độ nô lệ hình thành vai trò của cá nhân trong xã hội cũng được đề cao, vì thế thơ ca trữ tình xuất hiện. Loại thơ ca này nhằm biểu hiện một tình cảm thuần túy bên trong mỗi cá nhân, hoặc nói lên cảm nghĩ của nhà thơ về một đối tượng nào đó. 
2.4. Người Hy Lạp hàng năm có tục tế thần Dyonisos vào mùa xuân. Quần chúng tham gia đông đảo, hóa trang nhảy múa đủ các kiểu, dần dần phát triển thành loại hình ca kịch. Cho đến nay, hàng vạn người đã coi ca kịch là món ăn tinh thần không thể nào thiếu được. 
2.5. Truyền thống hùng biện đã có từ lâu ở người Hy Lạp, nay được phát triển thành loại hình văn xuôi hùng biện. 
2.6. Vai trò của thần quyền ở Hy Lạp không quan trọng. Không có tầng lớp tăng lữ đặc quyền, không có hệ thống đẳng cấp đè nặng lên xã hội, không có chủ nghĩa giáo điều tôn giáo khống chế tư tưởng con người như ở các quốc gia phương đông Cổ đại. Ðiều đó góp phần giải phóng trong chừng mực nào đó sự phát triển của văn học, khoa học và triết học khỏi những ràng buộc tôn giáo và những tư tưởng duy tâm thần bí. 
2.7. Cần chú ý rằng nền văn học Cổ đại Hy Lạp cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của các nền văn minh lâu đời ở các quốc gia phương đông Cổ đại. Người Hy Lạp đã biết học tập tiếp thu tinh hoa của những người đi trước và biết phát huy nhũng tinh hoa đó thành một nền văn học phong phú và đầy tính sáng tạo. 
3 .Ðặc điểm chủ yếu của nền văn học Cổ đại Hy Lạp: 
3.1 Văn học Hy Lạp Cổ đại lấy đối tượng chủ yếu là con người, là sự thể hiện con người với tất cả thói xấu cũng như sự tốt của nó, con người đầy đủ với những ham muốn ước mơ chứ không phải con người một chiều, chung chung. Vì thế ta thấy các vị thần trên đỉnh ngọn Olympe cũng đầy những đức tính của con người, ghen tuông, hờn giận, vui buồn. Những vị thần trong tác phẩm của Eschyle, Homère đều có những tâm lý, dục vọng, hành động, dáng dấp, cử chỉ của con người. 
3.2. Văn học Hy Lạp Cổ đại còn đề cập đến những vấn đề có tính chất xã hội như vấn đề tự do công lý, tinh thần chiến đấu chống lại số mệnh, tư tưởng anh hùng. Nhờ vậy nền văn học ấy đã dựng nên những hình tượng thể hiện đầy đủ bản chất của nhân loại trong buổi ấu thơ. 
3.3. Vì lấy con người làm đối tượng miêu tả nên văn học Hy Lạp còn giàu tính hiện thực. Những anh hùng ca Hy Lạp dù mang nặng tính chất hoang đường vẫn là những bức tranh trung thực của cuộc sống bấy giờ. Còn thơ ca trữ tình muôn màu muôn vẻ là những tâm tư tình cảm của người cổ đại đang khát khao hướng tới hạnh phúc của cuộc sống thần tiên. 
3.4. Nền văn học nghệ thuật Hy Lạp là một mẫu mực trong việc gắn bó chặt chẽ giửa văn học bác học và văn học dân gian. Tất cả loại hình đều phát triển từ văn học dân gian lên như anh hùng ca hình thành từ cơ sở những bài hát của các ca sỹ dân gian, bi hài kịch ra đời từ những cuộc vui chơi có tính cách tôn giáo. Mác nói: Thần thoại Hy Lạp không chỉ là kho vũ khí của nghệ thuật Hy Lạp mà còn là mảnh đất nuôi dưỡng nó nữa. 
3.5. Giá trị thẩm mỹ của nền nghệ thuật Hy Lạp là thể hiện được bản chất chân thật của loài người thời thơ ấu. Khi tiếp xúc với nền văn học đó, ta như thấy lại tuổi thơ của riêng mình và nhận thấy rằng chúng ta đã lớn lên từ một bước dài của lịch sử nhân loại. 
4. Ðịa vị của nền văn học Cổ đại Hy Lạp trong văn học Châu Âu và thế giới: 
Bàn về ý nghĩa của nền văn học cổ đại Hy lạp, Anghen viết: Chúng ta phải luôn luôn quay về với những thành tựu trong triết học và trong mọi lĩnh vực khác của dân tộc nhỏ bé này, một dân tộc mà tài năng và những hoạt động có tính chất toàn diện của nó đã đảm bảo cho nó một địa vị mà không một dân tộc nà khác có tham vọng đạt tới trong lịch sử tiến hóa của nhân loại. 
Có thể nói rằng: nếu không đi ngược thời gian để tìm hiểu nền văn hóa Hy La thì khó mà có thể hiểu hết văn hóa Châu Âu ngày nay.Trong phạm vi văn viết Châu Âu chúng ta có thể tìm thấy biết bao nhiêu đề tài, điển cố, điển tích bắt nguồn từ cảm hứng thần thoại Hy La cổ đại. 

Tài liệu đính kèm:

  • docOn van PT phuong tay.doc