Chuyên đề Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) - Đề 4

Chuyên đề Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) - Đề 4

Đề 4: Người ta thấy ở văn xuôi Nguyễn Ái Quốc “một nghệ thuật trần thuật

linh hoạt độc đáo và một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc, đầy tính chiến

đấu, vừa tươi tắn, hóm hỉnh”(Văn 12, 1992 – tr.8). Hãy chứng tỏ điều đó

qua truyện ngắn Vi hành.

* YÊU CẦU

Đây là đề bài nghiêng về nghệ thuật (dĩ nhiên không có nghệ thuật thuần tuý mà

nghệ thuật bao giờ cũng gắn với nội dung và phục vụ cho nội dung). Qua việc phân tích

truyện ngắn Vi hành, cần làm nổi rõ hai nét nghệ thuật của văn xuôi Nguyễn Ái Quốc mà đề

bài yêu cầu.

pdf 4 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1277Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Vi hành (Nguyễn Ái Quốc) - Đề 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Chuyên đề 7: VI HÀNH (Nguyễn Ái Quốc) 
Đề 4: Người ta thấy ở văn xuôi Nguyễn Ái Quốc “một nghệ thuật trần thuật 
linh hoạt độc đáo và một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc, đầy tính chiến 
đấu, vừa tươi tắn, hóm hỉnh”(Văn 12, 1992 – tr.8). Hãy chứng tỏ điều đó 
qua truyện ngắn Vi hành. 
* YÊU CẦU 
 Đây là đề bài nghiêng về nghệ thuật (dĩ nhiên không có nghệ thuật thuần tuý mà 
nghệ thuật bao giờ cũng gắn với nội dung và phục vụ cho nội dung). Qua việc phân tích 
truyện ngắn Vi hành, cần làm nổi rõ hai nét nghệ thuật của văn xuôi Nguyễn Ái Quốc mà đề 
bài yêu cầu. 
 1/ Nghệ thuật trần thuật linh hoạt độc đáo. 
 2/ Ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc, đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn, hóm hỉnh. 
 Hai nét nghệ thuật này không tách rời nhau mà kết hợp hài hòa với nhau để làm nên 
đặc sắc của văn xuôi Nguyễn Ái Quốc. 
* BÀI LÀM 
 Nghệ thuật nhiều khi dường như cũng có cái “bánh xe vô lượng”của nó. Trong văn 
chương, có những tác phẩm là sự đan xen, nối tiếp từ cảnh này sang cảnh khác, giọng điệu 
này sang giọng điệu khác, kết rồi mà còn như vẫn mở ra những điều mới mẻ. “Vi hành” của 
Nguyễn Ái Quốc làmột tác phẩm như vậy. Ngòi bút tác giả trong truyện là một ống kính 
vạn hoa mà ở đó mọi sự đều biến ảo linh động và toát lên những ý nghĩa tư tưởng cao đẹp. 
Truyện tiêu biểu cho văn xuôi Nguyễn Ái Quốc với “một nghệ thuật trần thuật linh hoạt 
độc đáo và một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc, đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn, hóm 
hỉnh” 
 Vi hành là tác phẩm được sáng tác vì mục đích cách mạng, vì tinh thần chiến đấu. 
Nó nằm trong hệ thống những bài văn, bài báo mà Nguyễn Ái Quốc viết để tố cáo chân 
tướng của tên vua bù nhìn Khải Định khi y sang Pháp dự cuộc đấu xảo thuộc địa ở Mácxây 
năm 1922. Qua truyện, tác giả muốn phơi bày bộ mặt của kẻ tay sai kia thật chẳng khác gì 
hơn một tên hề lố lăng, vi hành lén lút và mờ ám, tố cáo bọn thực dân Pháp đê hèn, lừa bịp, 
đồng thời bộc lộ một cách kín đáo nỗi tủi nhục của người dân bản xứ, mà chế độ thực dân, 
qua đó hiện lên như một sự sỉ nhục đối với con người. Nhưng đây cũng là một truyện giàu 
tính nghệ thuật, mang chất lãng mạn cách mạng. Ở đó, “trí tưởng tượng của người cầm bút 
nhờ ngọn gió lãng mạn mà được chấp cánh bay bổng, nhưng không phải để lạc loài đến 
những thế giới xa lạ, huyền hoặc mà để tiến thẳng, tiến nhanh đến những chân trời rất hiện 
thực” (Phạm Huy Thông). Cho nên nghệ thuật trần thuật linh hoạt độc đáo, ngòi bút châm 
biếm vừa sâu sắc, đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn, hóm hỉnh chính là những yếu tố hình 
thức phục vụ tích cực cho nội dung, cho mục đích cách mạng của truyện. 
 “Vi hành” được viết bằng tiếng Pháp, và chủ yếu viết cho công chúng Pháp. Vì thế 
nghệ thuật trần thuật ở đây cần phải phù hợp với thị hếu, lối tư duy của Châu âu hiện đại. 
Cái độc đáo của tác phẩm là hình thức viết thư kể chuyện, là hiện tượng “truyện trong 
truyện”. Có chuyện vua Khải Định vi hành lồng trong chuyện giữa đôi trai gái, lại lồng 
trong truyện giữa nhân vật xưng “tôi”với cô em họ.. Đôi trai gái người Pháp bàn luận ,đánh 
giá về Khải Định và “tôi” cũng luôn luôn bày tỏ thái độ của mình về tên vua bù nhìn , về 
thực dân Pháp qua câu chuyện đó . “Tôi” là người kể câu chuyện nhưng dường như cũng 
luôn luôn mang tư duy của tác giả để nhìn nhận nâng cao và mở rộng hơn những suy nghĩ 
của đôi trai gái về Khải Định. Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã tạo ra một giọng trần thuật vừa 
khách quan, đi ngay vào sự việc, cứ hồn nhiên, tỉnh rụi như không, lại vừa chủ quan với đủ 
những nghi ngờ thắc mắc, nhớ nhung vui đùa, những nghĩ xa nghĩ gần. Tình huống nhầm 
lẫn ở đây như muốn nói lên rằng: đấy là người Pháp họ nói và nghĩ về Khải Định đấy chứ! 
Nhưng hình thức viết thư cũng lại muốn khẳng định rằng họ đã nói đúng và “tôi” còn thấy 
tên vua kia tồi tệ hơn, đáng khinh hơn thế nữa! 
 Sự linh hoạt của giọng trần thuật luôn đi với cái độc đáo của nó, truyện luôn luôn có 
sự biến ảo, thay đổi về cảnh: có cảnh hiện đại, có cảnh hoài niệm hồi tưởng, cảnh lịch sử, 
quá khứ, cảnh tưởng tượng, giả thiết Giọng trần thuật, do đó cũng luôn linh hoạt chuyển 
đổi có giọng đối thoại, giọng kể tả, bình luận, có giọng cợt mỉa, chua chát và có cả giọng 
bâng khuâng, trữ tình, gợi nhớ Có thể nói Nguyễn Ái Quốc đã tận dụng triệt để những 
khả năng nghệ thuật của hình thức viết thư, sự chuyển cảnh giọng như biến hóa, sự liên hệ 
tạt ngang, vừa bày tỏ tình cảm, thái độ, vừa kể chuyện. Đang nghe chuyện Khải Định, ta 
bỗng biết chuyện vua Nghiêu, Thuấn, vua Pie: đang nói chuyện thời sự, ta bỗng nghe đến 
“chuyện cổ tích”!...Sự vật, sự việc cứ thay đổi một cách tự nhiên, trong ngòi bút linh động 
như kính vạn hoa của tác giả. 
 Bút pháp trần thuật của Nguyễn Ái Quốc cũng luôn chú ý đến sự đột ngột trong cách 
trình bày tình huống, mâu thuẫn và tạo khoảng trống cho trí tuệ người đọc liên tưởng, suy 
ngẫm, tìm ẩn ý, hàm ngôn. Truyện mang một nội dung lớn lồng trong một hư cấu đơn giản. 
Nếu không hiểu mục đích người viết, ta sẽ thấy truyện chỉ có tác dụng giải trí, gây cười cho 
đám công chúng Pháp. Và nếu chỉ có sự thuật lại tình huống nhầm lẫn trên toa xe điện 
ngầm, nếu như đôi trai gái xuống tàu là hết chuyện thì truyện cũng chỉ dừng lại ở sự cười 
cợt mỉa mai cách ăn mặc, lối vi hành lén lút, mò tới một xó xỉnh của tên vua bù nhìn. Đôi 
trai gái xuất hiện đột ngột trong một thời gian ngắn rồi cũng đột ngột đi mất khiến người 
đọc cứ phải ngơ ngác, bất ngờ rồi mới thú vị nhận ra những ý những tình. Đoạn văn từ sau 
khi đôi trai gái xuống tàu đã đem đến cho giọng trần thuật một sắc điệu mới: giọng kể chủ 
quan với vẻ ngoài là ngợi khen nhưng bên trong là mỉa mai, khinh thường. Từ chỗ một 
người bị nhầm lẫn đi đến chuyện “tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành hoàng đế ở 
Pháp”, từ việc Khải Định vi hành lén lút đi đến chuyện bọn mật thám Pháp rình rập từng 
bước chân người dân thuộc địa – cái muôn ngàn lần cay đắng vì bị mất tự do của kiếp người 
vong quốc – cho nên đằng sau cái dửng dưng sắc lạnh của giọng trần thuật, ta như cảm nghe 
cả chiều sâu nỗi lòng tác giả. 
 Như vậy, nghệ thuật trần thuật của “Vi hành” mang nhiều vẻ độc đáo mới lạ, không 
chỉ so với văn chương Việt Nam mà còn so với cả văn chương Pháp. Hình thức viết thư 
không có gì là mới đối với văn học phương Tây nhưng nó lại đi kèm theo một tình huống 
nhầm lẫn và những nhân vật Á Đông mang chút gì lạ lẫm, thú vị. Lời trần thuật của truyện 
đi theo cảm xúc người viết thư đã tạo nên cái không khí rất Tây và rất riêng ở đây. 
 Nghệ thuật châm biếm vốn cũng đã có truyền thống trong văn học Việt Nam, từ 
những Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương cho đến Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí 
Minh. Nhưng cái tiếng cười đả phá, mỉa mai ở Nguyễn Ái Quốc lại có sắc điệu riêng ở chất 
“uy – mua” rất Pháp, ở niềm tự tin, lạc quan của người chiến sĩ cộng sản. “Vi hành” là biểu 
hiện của một ngòi bút châm biếm vừa sâu sắc, đầy tính chiến đấu, vừa tươi tắn và hóm hỉnh. 
 Có thể gọi tên tiếng cười ở đây là tiếng cười trí tuệ. Người ta chỉ có thể hiểu được 
tiếng cười ấy khi có một tầm hiểu biết, nhận thức nhất định. Ấy là lối chỉ trích sắc sảo, 
không bằng đao to búa lớn mà bằng lối cười ruồi, nói mát. Phải có một trí tuệ lớn, một bản 
lĩnh, lập trường cách mạng vững chắc thì mới có thể sử dụng linh hoạt, hiệu quả thứ vũ khí 
chiến đấu lợi hại đó. Nhân vật chính – đối tượng châm biếm chủ yếu là Khải Định nhưng 
điều đặc biệt là hắn không hề trực tiếp xuất hiện trong truyện mà chân tướng vẫn hiện lên 
rất rõ. Tác giả đã mượn cái nhìn, ý nghĩ của chính đôi trai gái người Pháp cùng ý nghĩ, sự 
nghi hoặc, giả thiết của mình để soi chiếu, tái hiện hình ảnh tên vua bù nhìn từ nhiều chiều, 
nhiều phía. Trong con mắt người Pháp. Khải Định có một trang phục nực cười như một tên 
hề: “cái chụp đèn” (mà thực ra là cái nón)”chụp lên cái đầu quấn khăn”, “đeo lên người đủ 
cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm” và có giá trị rẻ tiền hơn cả những trò giải trí rẻ tiền nhất. 
Phụ hoạ thêm với những lời mỉa mai khinh rẻ ấy là thái độ đả phá trực tiếp của tác giả trong 
những lời nghi vấn giả thiết, so sánh, liên hệ. Khải Định, khi hiện lên trong sự đối lập, 
tương phản với vua Thuấn, vua Pie càng trở nên đáng khinh, càng tầm thường, hèn mạt 
Có một đoạn văn liên tục xuất hiện những câu hỏi đặt ra những giả thiết về mục đích vi 
hành “không cao thượng” của Khải Định. Các từ ngữ “phải chăng”, “hay là”, “hay 
không” luyến láy, tiếp nối như thể tác giả cứ đảo trộn, soi xét, lật đủ mặt này mặt kia để 
phơi bày trần trụi mọi cái xấu của đối tượng đả kích. Những câu văn như thoát khỏi cái tính 
chất “tâm sự” của lời viết thư để nói thẳng nói thật, nói trúng ý tình người viết thư – người 
viết truyện. 
 Sự sắc sảo của ngòi bút châm biếm còn bộc lộ trong bố cục kết cấu truyện. Đi từ 
thời gian hiện tại đến thời gian bao quát, từ một tình huống nhầm lẫn cụ thể đến nhiều tình 
huống nhầm lẫn khác, Nguyễn Ái Quốc đã vừa tạo sự bất ngờ thú vị cho người đọc, vừa 
khẳng định, minh chứng trước cho những điều cần nói để lật tẩy hoàn toàn bộ mặt Khải 
Định. Ở đây, người ta dễ tin chắc vào những chuyện hư cấu. Bởi vì dưới ngòi bút đầy tính 
chiến đấu của Nguyễn Ái Quốc, sự hư cấu hay không hư cấu, thật hay không thật đều có cái 
lí do tồn tại của nó, rất rành mạch rõ ràng. 
 Đối tượng châm biếm thứ hai là thực dân Pháp, cụ thể hơn là bọn mật thám và chính 
phủ nước Pháp. Nhưng ngay trong sự đả kích, châm biếm bọn này cũng có sự mỉa mai, 
khinh rẻ Khải Định: một ông vua sang dự đấu xảo ở nước “bảo hộ” cho nước mình mà lại 
“ngay đến chính phủ cũng chẳng nhận ra được khách thật của mình nữa”, “bèn đối đãi tất 
cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phải tuỳ tùng đi hộ giá suốt!”. Cái cười của 
Nguyễn Ái Quốc ở đây là cái cười mỉa mai, bóng gió, là lối nói mát thấp thoáng những ý xa 
ý gần, nghĩa đen nghĩa bóng. Có một “hệ thống” từ ngữ rất phong phú về lối nói lối cười 
ấy: “đón tiếp tốt đẹp” dành cho “nhiệt tình”, “chào mừng”, “kính trọng”,”tự hào”, “phục 
vụ”, ”tận tụy”, “âu yếm”, “xúc động sâu xa”, “kiêu hãnh” phụ hoạ với những từ cùng 
“trường nghĩa” này là giọng điệu những câu văn đậm đặc một vẻ mỉa mai và cả lối ví von 
so sánh sắc bén: “Các vị chẳng nề hà chút công sức nào để bảo vệ bọn tôi, và giá có được 
trông thấy các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác bà mẹ hiền rình con thơ chập chững bước đi 
thứ nhất, thì hẳn cô phải phát ghen lên được về nỗi âu yếm vủa các vị đối với tôi. Có thể nói 
là các vị bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng. Và thật tình là các vị 
cuống cuồng cả lên nếu mất hút tôi chỉ trong dăm phút! Cô thử nghĩ làm sao mà không xúc 
động sâu xa được”. Người ta có thể cười từ cửa miệng cười vào đến tận trong gan ruột trước 
những câu văn này. Mà ngay cả kẻ thù có lẽ cũng phải cười trong khi thấy lòng đau điếng. 
Ấy là cái cười vừa dành một chút cho giải trí, cho tan ra thành tiếng, vừa dành phần nhiều 
cho mục đích cách mạng, cho ngấm sâu chất xót xa vào máu thịt đối tượng châm biếm. Ấy 
là cái cười chua chát, mỉa mai như kết quả cuối cùng của một quá trình suy nghĩ để nhận ra 
cái trái tự nhiên nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng. Ngòi bút châm biếm sâu sắc của tác 
giả đã chú ý khai thác những điều trái ngược trong một sự thống nhất (ông vua danh nghĩa 
cao quí sang trọng nhưng thực chất là đáng khinh); chính sách bảo hộ; cái tên thì nhân nghĩa 
nhưng thực chất là bóc lột tàn ác hoặc phát hiện sự thống nhất trong những hiện tượng trái 
ngược (ông vua và tên hề, nghi thức đón rước và trò chơi trốn tìm, theo dõi). Rõ ràng đây 
là tiếng cười châm biếm rất trí tuệ, sâu xa và thâm thuý như của một đầu óc từng trải, già 
dặn lắm. 
 Nhưng ngòi bút Nguyễn Ái Quốc vẫn giữ được vẻ tươi tắn, hóm hỉnh của một tâm 
hồn trẻ trung, một tinh thần người chiến sĩ cách mạng luôn lạc quan, tin tưởng. “Vi hành” 
có tiếng cười giàu sắc điệu, ở đó có chất thâm thuý của người từng trải thông thuộc kinh sử 
lẫn chất tinh nghịch vui đùa của tuổi trẻ. Cho nên thái độ đả kích của tác giả cũng vừa trực 
tiếp vừa gián tiếp, vừa bộc lộ khách quan vừa bộc lộ chủ quan. Lối nói ngược, nói mát ở 
đây dường như có thấp thoáng cả sự hiếu thắng thường thấy ở tuổi thanh niên. Sự bình luận: 
“Đó là những người phục vụ thầm kín, rụt rè, vô tư và hết sức tận tụy” hay sự so sánh cái 
nón như “cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn”, “các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác 
bà mẹ hiền rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất”, “các vị bám lấy đế giày tôi, dính 
chặt với tôi như hình với bóng” rõ ràng có cái hóm hỉnh, đùa vui rất thoải mái, thú vị. Còn 
giọng điệu trần thuật, sự biểu lộ tình cảm của đôi trai gái, của “tôi” với cô em họ cũng có 
cái tươi tắn trẻ trung rất hấp dẫn. Những yếu tố ấy đã tạo nên da thịt cho câu chuyện, đã dẫn 
một ý tưởng, nội dung chính trị đi vào lòng người hồn nhiên, dễ dàng như một chuyện giải 
trí thú vị. 
 Đi vào thế giới nghệ thuật “Vi hành”, ta gặp sự phong phú, tầng lớp của bao yếu tố 
thi pháp : giọng điệu, hình ảnh, tiếng cười châm biếm và cả tâm trạng, cảm xúc tác giả. Tâm 
trạng ấy không chỉ xuôi chiều trong sự đùa vui, mỉa mai giễu cợt mà còn có cả lòng căm 
ghét kẻ thù lẫn nỗi đau, nỗi nhục mất nước. Lòng yêu nước nhiều khi còn được bộc lộ một 
cách chua chát trong giọng văn như là nghịch lí, ngược đời: “ngày nay, cứ mỗi lần ra khỏi 
cửa, thật tôi không sao che dấu nổi niềm tự hào được là một người An Nam và sự kiêu hãnh 
được có một vị Hoàng đế”. Ngòi bút đầy tính chiến đấu của Nguyễn Ái Quốc đã phát huy 
đắc lực tác dụng của nó ngay cả khi đụng chạm đến những nỗi niềm riêng tư sâu kín. 
 “Vi hành” là một vũ khí cách mạng thực sự, mà ở đó, tính nghệ thuật của tác phẩm 
đã mài sắc, vót nhọn nó, và trang điểm trang sức cho nó nữa. 
* * * 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvantap7-de4.pdf