Chuyên đề: Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930-1945 (phần văn) - Đề 7

Chuyên đề: Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930-1945 (phần văn) - Đề 7

Đề 7: Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của

một tang gia (Số đỏ - Vũ Trọng Phụng).

Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất sắc

của thể loại tiểu thuyết trào phúng. Số đỏ như chính là hiện thân của nghệ thuật trào

phúng trong văn xuôi Việt Nam. Với Số đỏ, người đọc được cười từ đầu đến cuối, cười

một cách hả hê, thoải mái. Nhưng cũng với Số đỏ người đọc phải phẫn uất mà kêu lên:

Trời, cái xã hội gì, cái lũ người gì mà giả dối, bịp bợm đến thế, bất nhân bạc ác đến thế.

pdf 3 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1641Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề: Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930-1945 (phần văn) - Đề 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Chuyên đề: Văn học lãng mạn và 
hiện thực phê phán 1930-1945 (phần văn) 
Đề 7: Phân tích nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của 
một tang gia (Số đỏ - Vũ Trọng Phụng). 
Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất sắc 
của thể loại tiểu thuyết trào phúng. Số đỏ như chính là hiện thân của nghệ thuật trào 
phúng trong văn xuôi Việt Nam. Với Số đỏ, người đọc được cười từ đầu đến cuối, cười 
một cách hả hê, thoải mái. Nhưng cũng với Số đỏ người đọc phải phẫn uất mà kêu lên: 
Trời, cái xã hội gì, cái lũ người gì mà giả dối, bịp bợm đến thế, bất nhân bạc ác đến thế. 
Đọc Số đỏ, người ta nghĩ: đây đúng là đất sở trường của Vũ Trọng Phụng, đây thật là 
ngón võ sở trường của Vũ Trọng Phụng. Trong tác phẩm này, ngón võ ấy được sử dụng 
một cách cực kỳ lợi hại trong một chương, chương XV, có nhan đề là Hạnh phúc của một 
tang gia. 
Ngón võ ấy là ngón gì? Ấy chính là nghệ thuật tạo mâu thuẫn. Thật ra thì không phải Vũ 
Trọng Phụng tạo ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn vốn nó tự có trong bản chất xã hội, và nhà văn 
họ Vũ, với cái nhìn sắc như dao của mình, với cái tài của một nhà trào phúng bẩm sinh, 
đã nhận ra nó, chỉ nó ra, nâng nó lên cho cả bàn dân thiên hạ nhìn thấy, để cười, để căm 
ghét và khinh bỉ nó. 
Cách đặt nhan đề chương sách của Vũ Trọng Phụng đã lạ lùng, đầy mâu thuẫn: Hạnh 
phúc của một tang gia. Tang gia mà cũng hạnh phúc à? Tang gia mà cũng có thể hạnh 
phúc được ư? Cái chết, cái chết của người thân gia đình có thể đem lại cho người ta hạnh 
phúc được sao? Nếu chỉ đọc nhan đề, người ta có thể nghĩ là nhà văn đã bịa ra, bịa ra một 
cách ác ý sự kết hợp của hai khái niệm hoàn toàn đối lập ấy. Nhưng không, đó không 
phải là ác ý của nhà văn, đó là sự thật của đời sống, sự thật của một xã hội mà nhà văn 
muốn mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mặt. 
Mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ông già. Ông già ấy là cha, là ông của một gia đình 
đông đảo và “đáng kính” của một xã hội “thượng lưu”. Cả gia đình ấy đã nhao lên, 
“nhao lên mỗi người một cách”. Nhưng nhao lên vì đau khổ, vì đau đớn, vì lo lắng 
trước cái chết của người thân chăng? Không phải, chúng đã nhao lên vì  hạnh phúc! 
“Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”. Câu văn tưởng chừng ngược đời 
kia của Vũ Trọng Phụng đã thâu tóm cả một thứ “thế thái nhân tình”. 
Nhận định ấy không hề là một sự bịa đặt cho vui của nhà văn. Sự thật rành rành rất cụ thể 
này đây: 
Ông phán mọc sừng, sau cái chết của ông bố vợ, bỗng thấy cái “sự mọc sừng” của mình 
đột nhiên tăng giá lên thêm vài nghìn đồng. Cụ cố Hồng sung sướng “mơ màng đến cái 
lúc mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu” để được người ta ngợi 
khen “một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế”. Còn ông Văn Minh, cháu đích 
tôn, nhà cải cách xã hội? Ông ta sung sướng tột đỉnh, bởi vì, với cái chết của ông nội, ông 
ta thấy rằng cái tờ di chúc đã được thực hiện, nghĩa là cái ao ước cho ông nội mình chết 
đi, để chia của, đã trở thành sự thật. Bà Văn Minh sung sướng theo đúng cách của một 
phụ nữ tân thời, bà ta nhận ra từ cái chết của ông nội chồng một dịp may hiếm có để có 
thể mặc “tang phục tân thời”, đồ xô gai tân thời, “dernìeres créations” của tiệm may Âu 
Hóa! 
Tâm địa cái lũ người kia tưởng đến thế đã là tởm. Nhưng chưa hết. Đến đây, Vũ Trọng 
Phụng còn đầy mâu thuẫn lên một tầng nữa. Bởi bọn con cháu bất hiếu bất mục nhất trần 
đời đó còn muốn tỏ ra mình là những kẻ có hiếu có thảo cũng nhất trần đời nữa kia. Thế 
là dưới ngòi bút của nhà văn trào phúng, sự bịp bợm cao nhất, đáng phỉ nhổ nhất cũng 
bộc lộ ra. Những kẻ mong cho ông già mau chết đã tổ chức một đám ma thật to để bày tỏ 
lòng hiếu thảo, nghĩa tiếc thương đối với người đã chết! Chính vì thế, ngòi bút của Vũ 
Trọng Phụng đã tập trung sức mạnh, như có thần, trong phần thứ hai của chương sách, 
nghĩa là phần tả cảnh đám ma. 
Trước hết, nhà văn tả cô Tuyết, một cô gái hư hỏng như chỉ “hư hỏng một nửa”, một thứ 
thiếu nữ đang rất tiêu biểu trong xã hội “tân thời ngày ấy”. Tuyết mặc bộ tang phục 
“ngây thơ” nửa kín nửa hở, với nét mặt có “vẻ buồn lãng mạn” (vì nhớ nhân tình chứ 
không phải vì thương người chết) đã gây một hiệu quả lạ lùng: các vị tai to mặt lớn đi 
đưa đám chỉ nhìn vào vẻ khêu gợi của Tuyết để mà cảm động, cứ như thực sự cảm động 
trước nỗi buồn tang tóc vậy. 
Đám ma thật to, to đến nước “có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải 
mỉm cười sung sướng”. Người ta đã lợi dụng đám ma đến mức cao nhất để khoe giàu 
khoe sang và khoe lòng hiếu thảo giả vờ của mình! Nếu như mong muốn của tất cả đám 
con cháu của người chết kia là, trong đám ma này, đưa sự giả dối, bịp bợm đồng thời 
cũng là sự tàn nhẫn, bất nhân, đểu giả của mình lên đến mức hoàn toàn, thì quả thật 
chúng đã đạt được một cách trọn vẹn, xuất sắc. 
Nhưng chưa hết đâu, dưới mắt Vũ Trọng Phụng, cái lũ người giả dối không chỉ bao gồm 
một nhóm nhỏ ấy đâu. Chúng đông đảo lắm. Chúng là toàn xã hội. 
Bắt đầu là đại diện bộ máy cảnh sát, nghĩa là đại diện của Nhà nước: thầy Min Đơ và 
thầy Min Toa. Tác giả đã nói đến vẻ mừng rỡ hí hửng của hai thầy khi được nhà chủ đám 
ma thuê làm người giữ trật tự. Lí do của sự mừng rỡ duy nhất chỉ là vì họ đang không có 
việc gì để làm, và đang “buồn rầu như nhà buôn sắp vỡ nơ”. Thứ đến là các vị tai to mặt 
lớn, lớp “tinh hoa” của giới thượng lưu xã hội, mặt mũi long trọng, ngực đeo đầy đủ thứ 
“bội tinh”. Trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải vì tưởng nhớ đến người 
đã khuất, cũng không vì tiếng kèn đưa ma não ruột bi ai, mà chỉ vì được ngắm không 
mất tiền làn da trắng thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết. 
Sự xuất hiện của hai tên đại bịp trong dịp này lại khiến người ta “cảm động” đến cực 
điểm: Xuân Tóc Đỏ và sư cụ Tăng Phú. Vì sao? Vì với sáu chiếc xe kéo và những vòng 
hoa đồ sộ, hai kẻ này đã làm cho đám ma thêm long trọng, to tát. Đến bà cụ cố Hồng, có 
lẽ người lương thiện nhất trong cái gia đình vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng cảm động 
đến hớt hãi lên. 
Những người đi đưa đám thật đông đảo. Bằng điệp khúc “Đám cứ đi” được nhắc lại 
đến mấy lần, tác giả như muốn nói: đám ma thật là to, thật là đông, thiên hạ tha hồ 
màchiêm ngưỡng để thấy rõ sự to tát của nó. Nhưng cứ tìm thử xem trong đám người 
đông đảo ấy có ai là người đang thực sự “đi đưa đám”, nghĩa là thực sự có chút tiếc 
thương đối với người chết mà họ đang đưa tiễn? Không có ai cả. Tất cả mọi người đàn 
ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ, tuy đang giữ một vẻ nghiêm chỉnh, nhưng đều 
đang nói một điều gì đó, làm một điều gì đó, nghĩ một điều gì đó không dính dáng đến 
người chết và đám ma cả. Trai thanh gái lịch thì chim nhau, bình phẩm, chê bai nhau, 
ghen tuông nhau, hẹn hò nhau nhưng tất cả đều “bằng vẻ mặt buồn rầu của những 
người đi đưa ma”. 
Thật là nhẫn tâm, thật là vô liêm sỉ. Ta sẽ nghĩ thế. Nhưng với Vũ Trọng Phụng, có nghe 
được những lời mà bọn họ nói với nhau mới thấy sự vô liêm sỉ ấy còn trơ tráo đến mức 
nào. Và nhà văn đã đưa ra một số lời ấy. 
“Đám cứ đi” nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài. 
Đến lúc đám không “cứ đi” nữa mà dừng lại để hạ huyệt. Vũ Trọng Phụng còn hiến cho 
người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất 
là cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, giữ những tư thế đau 
buồn để cho cậu ta.. chụp ảnh. Chi tiết thứ hai là ông phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô 
liêm sỉ nhất trong gia đình này, đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, giữa lúc oằn 
người khóc lóc, chính ông ta đã giúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có 
công gọi ông ta là “người chồng mọc sừng” (chính là cái công gián tiếp khiến cho ông 
già đã chết). Thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò đời. Hai chi tiết ấy 
đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương sách nói về sự giả dối của người đời. 
Những điều Vũ Trọng Phụng viết trong chương sách là chuyện thật ư? Lẽ nào Những 
điều ấy toàn là hư cấu ư? Nhưng những điều ấy đều hợp lí lắm mà, và hình như đều có 
thật cả. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, 
sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ trên đó nổi lên hai điều lớn nhất: sự tàn nhẫn và sự 
dối trá. 
Bài giảng của: Trung tâm Bồi dưỡng văn hóa 
và Luyện thi đại học Vĩnh Viễn 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfChuyen de Van hoc hien thuc phe phan 7.pdf