Về một số phương thức tạo từ ngữ trong tiếng việt hiện đại

Về một số phương thức tạo từ ngữ trong tiếng việt hiện đại

Trong giai đoạn mở cửa và hội nhập, tiếng Việt đang phát triển mạnh, đa dạng hơn, phong phú và hiện đại hơn. Trong bài báo này, qua khảo sát một số tờ báo tại Thành phố Hồ Chí Minh như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Người Lao Động, Sài Gòn Giải Phóng, Phụ Nữ, . chúng tôi bước đầu lược quy và khảo sát ba phương thức cấu tạo sau: (i) phương thức gán thêm một hay nhiều nghĩa mới cho một hình thức âm thanh cũ (xu hướng mở rộng nghĩa), (ii) xu hướng cấu tạo từ dựa vào các mô hình kết hợp đã có, (iii) xu hướng vay mượn từ ngữ của các ngôn ngữ khác (đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Hán).

doc 10 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 2084Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Về một số phương thức tạo từ ngữ trong tiếng việt hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VỀ MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC TẠO TỪ NGỮ
TRONG TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI
(qua khảo sát một số tờ báo tại thành phố Hồ Chí Minh)
ĐÀO MỤC ĐÍCH* Th. S. Khoa Việt Nam học, Trường ĐHKHXH &NV - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Trong giai đoạn mở cửa và hội nhập, tiếng Việt đang phát triển mạnh, đa dạng hơn, phong phú và hiện đại hơn. Trong bài báo này, qua khảo sát một số tờ báo tại Thành phố Hồ Chí Minh như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Người Lao Động, Sài Gòn Giải Phóng, Phụ Nữ,. chúng tôi bước đầu lược quy và khảo sát ba phương thức cấu tạo sau: (i) phương thức gán thêm một hay nhiều nghĩa mới cho một hình thức âm thanh cũ (xu hướng mở rộng nghĩa), (ii) xu hướng cấu tạo từ dựa vào các mô hình kết hợp đã có, (iii) xu hướng vay mượn từ ngữ của các ngôn ngữ khác (đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Hán).
I - XU HƯỚNG MỞ RỘNG NGHĨA
Phát triển thêm nghĩa mới hay mở rộng nghĩa là một trong những con đường làm giàu từ vựng. Theo con đường này, mặt ngữ âm của các đơn vị từ vựng tiếng Việt vốn có vẫn giữ nguyên, nhưng mặt ngữ nghĩa lại biến đổi, phát triển.
Ví dụ 1: Thị trường nhà đất đóng băng ở mức cao (TN, 5/11/2002) (1).
Đóng băng trong ví dụ trên hàm ý là thị trường nhà, đất không bán được, sắc thái nghĩa mới này khác với nghĩa của từ đóng băng trong từ điển (2) là: kết đọng lại thành cái có trạng thái cố định, có hình dáng không thay đổi. 
Ví dụ 2: Chúng tôi sẽ siết chặt quản lý các dự án xây dựng nhà ở không phải để đất đai đóng băng mà để các dự án thật sự phát triển (NLĐ, 8/5/2002). (3)
Đóng băng trong ví dụ này dựa vào ngữ cảnh có thể thấy hàm ý nhiều tổ chức, cá nhân đã nhận đất nhưng không thực hiện đầu tư xây dựng nhà ở hoặc triển khai dự án quá chậm. Và vì vậy chính quyền cần phải có những biện pháp thích hợp để các dự án đóng băng phải đi vào hoạt động, nghĩa là đất dự án sẽ tan băng (NLĐ, sđd)
Cũng đóng băng nhưng trong ví dụ sau, nghĩa lại hoàn toàn khác.
Ví dụ 3: Vốn xóa đói giảm nghèo đóng băng trong ngân hàng (TT,27/9/2001) (4)
Vốn bị đóng băng trong ngân hàng có ý nghĩa là số vốn đó chưa được giải ngân, chưa được rút ra khỏi ngân hàng, để đầu tư nhằm giúp xóa đói giảm nghèo.
Ví dụ 4: Tổng thống Bush ra lệnh đóng băng tài sản của 3 tổ chức mà Mỹ cho là hậu thuẫn cho phong trào Hamas (TT, 6/12/2001).
Ở đây đóng băng lại có nghĩa là phong toả.
Theo từ điển nghĩa thứ hai của đánh bóng là: Làm cho bóng bằng cách chà xát trên bề mặt, ví dụ như: đánh bóng bàn ghế, đánh bóng đồ đồng, Xét ví dụ sau: 
Ví dụ 5: Với quyết định đầu tiên về chính sách quốc tế (không kích Irắc), Bush đã thất bại trong việc đánh bóng hình ảnh tên tuổi của mình (TT, 4/3/2001). 
Tương tự, trong ví dụ sau: 
Ví dụ 6: Khi công bố tiền thưởng cho vận động viên, ngoài việc kích thích tâm lý vận động viên rất hiệu quả đó còn là hình thức đánh bóng tên tuổi của các doanh nghiệp (TT, 30/9/2001). 
Do có sự tương ứng trong mối quan hệ liên tưởng nên cách kết hợp trên cũng dễ được chấp nhận, có điều đánh bóng trong hai ví dụ trên đã mang thêm nét nghĩa mới, biểu thị thái độ đánh giá âm tính của người viết. 
II - XU HƯỚNG CẤU TẠO TỪ DỰA VÀO CÁC MÔ HÌNH KẾT HỢP ĐÃ CÓ
Các đơn vị mới được hình thành từ các yếu tố có sẵn, dựa vào các mô hình đã có theo xu hướng lấp dần các ô trống theo từng mẫu cấu tạo để hướng tới sự hài hòa hoàn chỉnh trong hệ thống.
Các yếu tố cấu tạo được lựa chọn dựa vào mối quan hệ liên tưởng
Từ những từ vốn có trong hệ thống, các đơn vị từ mới được hình thành dựa vào sự tương ứng nhờ mối quan hệ liên tưởng. Các đơn vị từ mới này được hình thành bằng cách kết hợp một thành tố cố định với một hoặc nhiều thành tố khác đứng trước hoặc sau thành tố cố định. So sánh những từ cũ (những từ không gạch chân) và những từ mới (những từ gạch chân) sau đây:
Hóa đơn khống - dự toán khống, nghiệm thu khống, kê khống, bán khống, ký khống, chứng từ khống, khế ước khống, quyết toán khống, công lệnh khống, giấy phép khống,
Vật ảo - giá ảo, đại học ảo, học ảo, không gian ảo, thị trường chứng khoán ảo, nổi (tiếng) ảo, bệnh nhân ảo, mổ ảo, kết quả ảo 
Nghịch ngầm - thị trường ngầm, thoả thuận ngầm, hậu thuẫn ngầm, luật ngầm, lệ phí ngầm,
Hải tặc – không tặc, tin tặc, vàng tặc, lâm tặc, đất tặc,sa tặc, lộ tặc, thuỷ tặc, 
Bia ôm – karaoke ôm, hớt tóc ôm, cà phê ôm, thịt chó ôm, nghỉ trưa ôm, bida ôm, tắm ôm, 
Sô (show) - chạy sô, móc sô, bể sô, bầu sô, dô sô, ôm sô, 
Bao tiêu - lạm tiêu, nội tiêu, ngoại tiêu,
Máy tính điện tử – hộp thư điện tử, tạp chí điện tử, báo điện tử, trò chơi điện tử, thương mại điện tử, chính phủ điện tử..
Con người thép - thể lực thép, thần kinh thép, trái tim thép, kỷ luật thép, lá chắn thép, cô gái thép, 
Ông bạn vàng - bàn tay vàng, đôi chân vàng, đôi mắt vàng, cơ hội vàng, thời khắc vàng, cậu bé vàng, gương mặt vàng 
- Khuyến học, khuyến xanh, khuyến nông, khuyến ngư, khuyến công 
Du lịch dã ngoại, du lịch sinh thái, du lịch vào quá khứ, du lịch sang trọng, du lich tình dục, 
Hãy phân tích trường hợp sau:
Vay nóng - đường dây nóng, sự kiện nóng, hộp thư nóng, thông tin nóng, tiến độ nóng, cái đầu nóng, thưởng nóng, sục sôi bầu máu nóng, điểm nóng 
Sự kiện nóng, thông tin nóng, để chỉ những vấn đề, những thông tin mới xảy ra tức thì.
Đường dây nóng được biết như một kênh thông tin để liên lạc trực tiếp và phản hồi nhanh.
Cái đầu nóng để chỉ những người khó kìm giữ được những phản ứng thiếu suy nghĩ do quá tức giận.
Thưởng nóng thưởng ngay tức khắc và kịp thời. 
Điểm nóng trong câu năm 2000 đã có 32 nhà báo thiệt mạng trong khi làm nhiệm vụ tại các điểm nóng” chỉ những nơi đang xảy ra chiến tranh.
Mặt khác nóng không chỉ là yếu tố cấu tạo từ, mà trong nhiều trường hợp nó đã được dùng như một từ độc lập với sắc thái nghĩa khác với nghĩa từ điển. Ví dụ: thị trường đất ở đó đang nóng lên có nghĩa là thị trường đất ở nơi đó đang có nhiều người mua bán, chuyển nhượng và giá đất đang ngày một cao hơn. "Sức mua đang ngày một nóng nghĩa là sức mua đang ngày càng tăng.
2 - Các yếu tố cấu tạo được lựa chọn dựa vào tính đối ứng 
Các yếu tố cấu tạo được lựa chọn căn cứ vào tính đối ứng như nội - ngoại, động - tĩnh, cứng - mềm, chính quy - phi chính quy, nóng - nguội, tây - ta,.
Ngoại tệ – nội tệ; ngoại lực – nội lực; giao thông động – giao thông tĩnh; quy hoạch cứng – quy hoạch mềm; thi trường chính quy – thị trường phi chính quy; tin nóng - tin nguội, tây ba lô – ta ba lô; leo thang – xuống thang, giàu cực kỳ – nghèo cực kỳ, điều chỉnh tăng – điều chỉnh giảm, .
Đặc biệt có cách đối ứng từng thành phần của từ ngữ ghép như:chiến tranh lạnh – hòa bình nóng. 
3 - Các yếu tố cấu tạo được lựa chọn dựa vào quan hệ ngữ nghĩa đẳng lập
3.1- Một số lượng lớn các từ ghép được tạo mới bằng cách ghép những yếu tố (thường là những yếu tố gốc Hán) được coi là có giá trị nhất về mặt ngữ nghĩa của các yếu tố có sẵn và hai yếu tố này có ý nghĩa chỉ loại ngang bằng nhau để cấu tạo nên một đơn vị hoàn chỉnh mới mang nghĩa khái quát, tổng hợp.
Hội đồng chuyên môn xem xét việc thương thảo hợp đồng với nhà thầu  (TT, 1/7/2001). 
Tổ chức thiện nguyện (TT, 4/11/2001). 
Các khoản công quỹ chi xuất trái nguyên tắc (TN, 23/11/2002).
Lâu ngày không tái lập mặt đường (TN, 25/11/2002).
Nó cần sự đồng thuận của xã hội (TT,3/1/2002) 
Để trùng tu phục tạo các di tích (TT,26/2/2002)
-	 Là một tiêu mẫu về nghệ thuật kiến trúc (TT, 30/9/2001).
Quy hoạch hàm ngụ tính cưỡng ép (TT, 4/3/2001). 
Trong thực tế hành thu, Sở thuế đã thu (TT,17/11/2002).
Xây dựng các trung tâm kiểm chuẩn xét nghiệm (TT, 1/9/2002).
Những từ ngữ mới trên được ghép như: thương thảo (thương lượng, thảo luận), thiện nguyện (từ thiện, tình nguyện), đồng thuận (đồng tình, thuận (bằng lòng)), phục tạo (khôi phục, tái tạo), tiêu mẫu (tiêu biểu, mẫu mực), hàm ngụ (hàm ý, ngụ ý) 
Bên cạnh những từ ghép được tạo mới bằng cách ghép hai yếu tố gốc Hán, còn có một lượng từ ghép khác được tạo bằng cách ghép một yếu tố gốc Hán với một yếu tố thuần Việt như:
- Giữ vai trò đầu lĩnh (TN, 23/11/2002). Đầu là yếu tố thuần Việt, lĩnh là yếu tố Hán.
- Số tiền thuộc hạn mức chưa chi hết (TT, 26/02/2002). Hạn là yết tố Hán, mức là yếu tố thuần Việt. 
Hoặc một từ ngữ mới được tạo bằng cách ghép hai yếu tố thuần Việt như:
- Di chuyển xen ghép với khu dân cư cũ (TN,18/9/2002).
- Đã đúc rút kinh nghiệm từ những việc làm . (TN, 15/11/2002).
3.2 - Trong thời gian gần đây trên báo chí cũng xuất hiện ngày càng nhiều những cách ghép sau:
Thực hiện theo kế hoạch thang, bậc lương cũ (thang lương bậc lương) (TN, 21/11/2002).
Thiết kế thang, bảng lương (thang lương bảng lương) riêng cho ngành giáo dục (TN, 25/11/2002).
Phương thức ứng xuất công quỹ (ứng công quỹ, xuất công quỹ) một cách lộn xộn (TN, 21/11/2002).
Đề nghị thanh quyết toán (thanh toán quyết toán) (TT, 17/11/2002).
Tặng thưởng huân, huy chương (huân chương, huy chương) chống Mỹ cứu nước (TT, 17/11/2002).
Sở Y tế lập kế hoạch thanh kiểm tra (thanh tra, kiểm tra) (TT, 15/08/2002).
Album vừa phát hành tuần qua đã nhảy vào hạng 1 của bảng tổng sắp (bảng tổng kết sắp hạng) (TN, 04/10/2002).
Nhiều doanh nghiệp hoá mỹ phẩm, (hoá phẩm, mỹ phẩm) bánh kẹo, (TT, 16/11/2002).
Những trợ huấn cụ (công cụ trợ giúp huấn luyện) và cả film ảnh (TT, 17/11/2002).
Quy hoạch phòng chống lũ (phòng lũ, chống lũ) ở Đồng bằng sông Cửu Long (TN, 21/11/2002).
Phòng chống cháy rừng (TT, 5/12/2002).
Đối với hàng nông-lâm-thuỷ sản (nông sản, lâm sản, thuỷ sản) chưa qua chế biến (TT, 17/11/2002).
Hàng loạt phiếu chi-thu khống (chi khống, thu khống) (TN, 23/11/2002).
Xây dựng mô hình nuôi cá nước mặn -lợ (cá nước mặn, cá nước lợ) trong ao (NLĐ, 18/11/2002).
Thanh niên tiên tiến trong lĩnh vực nông-lâm-ngư (nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp) (TN 9/11/2002).
Công-nông-trí (công nhân, nông dân, trí thức) là ba lực lượng nòng cốt (NLĐ, 18/11/2002).
Điều hành chỉ huy cất- hạ cánh (cất cánh, hạ cánh) (TT,6/12/2002).
Dự án tổ hợp khí-điện -đạm Cà Mau (TN, 21/11/2002).
Những cách ghép trên, đặc biệt là cách ghép từ ngữ mới bằng những yếu tố Hán Việt đang phát triển rất mạnh trên báo chí, có thể do tác động tâm lý công nghiệp cần những từ ngữ mới với hình thức cấu tạo từ không đổi nhưng có thể vừa chuyển tải được nhiều nhất lượng thông tin một cách chính xác, đầy đủ, vừa dễ hiểu, dễ tiếp nhận  Và các từ gốc Hán với những lợi thế của mình đã hoàn toàn đảm đương được nhiệm vụ trên. Tuy nhiên bên cạnh những từ ngữ đã nhập vào hệ thống của tiếng Việt còn nhiều từ ngữ mới vẫn còn trong giai đoạn "thử thách", và chúng còn phải chịu sự sàng lọc, thẩm định và đào thải rất khắc nghiệt của xã hội.
	Bên cạnh những cách ghép trên, hiện nay trên báo chí xuất hiện ngày càng nhiều những trường hợp như: Ba giảm, ba chung, ba cùng, ba hoá, 4 không, ba nhiệm vụ, 5 yêu cầu, v.v.
Phối hợp với công an quận tuyên truyền chương trình ba giảm (giảm ma tuý, giảm mại dâm, giảm tội phạm) cho trên 1200 công nhân (NLĐ, 25/10/2002).
Phương án ba chung (chung đề, chung đợt, chung kết quả thi) cho kỳ thi đại học (SGGP, 28/10/2002).
Sau một tháng ba cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc) với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, (TT, 17/8/2002).
Những chiến sĩ biệt động, đó là những con người của “ba hoá” (hợp pháp hoá (tạo vỏ bọc an toàn về mặt pháp lý)), nghề nghiệp hoá (tạo một công việc ổn định vừa nuôi sống mình vừa che mắt địch), quần chúng hoá (cách ăn mặc nói năng hoà vào môi trường). (TT, 08/10/2002).
Đây là phương án 3 nhiệm vụ (cung cấp điện năng, góp phần chống lũ và cấp nước cho đồng bằng Bắc Bộ, phát triển kinh tế vùng Tây Bắc) và 5 yêu cầu (an toàn, hiệu quả, quốc phòng, an ninh, môi trường và bảo tồn các di sản văn hoá) (TN, 21/11/2002).
Đoàn đã phát động phong trào 3 trách nhiệm (trách nhiệm với dân, luôn là công bộc của dân, trách nhiệm với công việc và trách nhiệm đối với việc tu dưỡng rèn luyện của bản thân mình) (TN, 10-10-2002).
5 bí quyết để thu hút người dân đi xe buýt đó là: 4 hợp lý – 1 cao (hệ thống mạng, tần suất chạy xe, điểm đỗ và giá hợp lý) (SGGP, 24/10/2002)
4 - Hiện tượng chuyển từ loại
Trong khi khảo sát chúng tôi cũng thấy trên báo có hiện tượng chuyển từ loại. Hiện tượng này làm phong phú thêm sắc thái nghĩa cho một đơn vị từ vựng.
Ví dụ 9: Phục trang bằng vải thun giá tiền rất sinh viên (TT, 23/11/2001).
Ví dụ 10: X là lựa chọn cho Chí Phèo, sau khi hoá trang nhìn anh quả rất Chí Phèo, Cô nàng Thị Nở với nhan sắc cực kỳ Thị Nở (TT, 3/11/2001).
Ví dụ 11: Các cây bút lớn của Ấn Độ hiện nay, đều sống ở nước ngoài. Dù vậy các tác phẩm của họ cũng thể hiện những trăn trở rất Ấn, những phản ứng rất Ấn, những cách nghĩ rất Aán (TT, 4/3/2001).
Chúng ta hãy phân tích ví dụ sau:
Ví dụ 12: Sao (*) vào trường thì cứ vác mặt lên trời nói năng kiểu sao (**) cử chỉ đầy phong cách sao (***) (TT, 1/9/2001). 
Sao (*): là danh từ để chỉ những ngôi sao ca nhạc, ngôi sao sân khấu.
Sao (*): là tính từ, hàm ý cách nói năng khinh khỉnh, ngạo mạn, cộc lốc,
Sao (***): là tính từ, hàm ý cử chỉ hất mặt, vuốt tóc, liếc ngang, liếc dọc, lộ vẻ ta đây
III - XU HƯỚNG VAY MƯỢN TỪ TIẾNG NƯỚC NGOÀI
Cũng như các ngôn ngữ khác, trong quá trình phát triển, tiếng Việt đã tiếp nhận thêm nhiều từ ngữ mới, để làm giàu cho kho từ vựng. Trong giai đoạn đất nước ta mở cửa và hội nhập hiện nay, chiếm tỉ lệ lớn nhất trong các từ vay mượn là các thuật ngữ tin học – điện tử, kinh tế, y học, luật, báo chí
1 - Vay mượn từ tiếng Anh, được dùng ở dạng sao phỏng ngữ nghĩa
Access internet card (thẻ truy cập internet), e – commerce (thương mại điện tử), e – news (báo điện tử), e-learning (giáo dục điện tử), reality tour (du lịch thực tế), win – win (lợi người lợi ta), wedsales (bán hàng qua mạng), open sky ((chính sách) bầu trời mở), telemidicine (y học từ xa), low interest (hạ thấp trần lãi suất), theatre in education company (sân khấu giáo dục), fire wall (Bức tường lửa), knowledge economy (Kinh tế tri thức), online imformation (Thông tin trực tuyến), fastfood (thức ăn nhanh), m-commerce (thương mại di động), stable development (Phát triển bền vững), .
	 	Chúng tôi cũng gặp những cách viết chêm xen những từ tiếng Anh, bởi vì có một số từ thường được mượn nguyên từ cùng với khái niệm mà chưa được dịch ra tiếng Việt, vì không tìm được từ tương đương, hoặc từ tương đương không thoả mãn yêu cầu, hoặc phải dịch quá dài. 
Sau khi tham gia chuyến famtrip tại Việt Nam (TT, 18/11/2001).
Nếu học sinh chọn ở homestay thì có nhiều lợi thế .(TT, 7/12/2002).
Ưu thế đã thuộc về các giọng hát opera (TT, 13/11/2001).
Saxophon, Keyboard, PopRock, Hip Hop, R & B (Rythym and Blue) Jazz, (TT, 2/10/2001).
Lượng cholesterol cao trong máu là một trong nhiều nhân tố liên quan của bệnh lý (TT, 11/11/2001).
Tuy nhiên cũng có không ít những từ đã dịch ở dạng tương đương trong tiếng Việt nhưng cũng vẫn sử dụng cách viết xen lẫn tiếng Anh như trên:
Bạn click chuột lên icon để mở menu và down load chương trình về (TT, 2/10/2001).
Có buổi working-dinner lúc 11:00 đêm với Bộ trưởng Thương mại(TT, 8/12/2001).
Đua làm live show, ra album (TN, 14/11/2002).
Mặc dù đã sale off đến 50 - 70% giá vẫn cao (TT, 8/12/2001).
Sang đầu tháng 12, V-League sẽ chính thức khai mạc (TT, 28/10/2001).
Real được mệnh danh là đội hình Dream Team kể từ (NLĐ, 5/11/2002).
Trao đổi trực tuyến chớp nhoáng với vài thành viên đang online (TT, 7/12/2002).
Vay mượn từ tiếng Hán 
2.1- Để xác định những đơn vị tiếng Hán mới được mượn vào tiếng Việt chúng tôi dựa vào các từ điển sau: Phan Văn Các, 2001, Từ điển từ Hán Việt, NXB TP. HCM; Từ điển Việt Hán, 1990, NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp; Từ điển Hán ngữ hiện đại, 1998, NXB Thương Vụ, Bắc Kinh, 
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy trên báo chí cũng đã xuất hiện những từ ngữ Hán mới được vay mượn, hoặc mới được dùng lại trong những năm gần đây.Ví dụ:
- Bên cạnh khẩu khiếu thiên phú (TT, 8/10/2001).
Ông nói một cách hào sảng nhưng rất thật thà (TN, 18/11/2002).
Giá xi măng vẫn giữ ở mức bình ổn (TN, 15/11/2002).
Trong chấp pháp, trong quản lý (TT, 17/11/2002).
Lối chơi tấn công đẹp mắt làm mãn nhãn người hâm mộ (TN, 18/11/2002).
Những người nắm quyền chi quốc khố (TN, 7/12/2002).
Nửa thế kỷ sau sinh suất có giảm (TN, 6/12/2002).
Chiêm ngưỡng hiện tượng kỳ thú này (TT, 5/12/2002)
Do các lương dược trung cấp đứng tên (TT, 1/12/2002).
Đã tiến hành kiểm thảo từng người (TN,18/9/2002).
Đã trao 220 phần qùa cho những học sinh hội đủ 3 tiêu chuẩn: Hiếu kính Cha mẹ (TN,18/9/2002).
Bên cạnh những từ ngữ Hán mới mượn trên, còn có một số từ ngữ Hán khi du nhập vào tiếng Việt đã có sự biến đổi trật tự so với từ gốc Hán, như:
- Thực hiện chính sách miễn giảm học phí (5/12/2002). (Tiếng Hán là giảm miễn).
- Thảo dược không bao bì thì càng khó xác định (TT,1/12/2002). (Tiếng Hán là dược thảo).
Qua những ví dụ trên, chúng ta thấy rằng quá trình vay mượn tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Anh và tiếng Hán của tiếng Việt vẫn đang diễn ra bằng nhiều con đường khác nhau. Việc vay mượn tiếng nước ngoài, các thuật ngữ khoa học là quá trình tự nhiên của các ngôn ngữ nhằm làm giàu kho tàng từ vựng của mình bản ngữ để định danh những khái niệm mới liên tục nảy sinh và xuất hiện trong xã hội. Tuy nhiên, những từ mới mượn này khi nhập vào hệ thống tiếng Việt trong nhiều trường hợp đã có sự biến đổi về mặt hình thức cấu tạo từ, sự đồng hóa về mặt ngữ âm hoặc có sự biến đổi về nghĩa so với nghĩa gốc của nó. Chúng tôi sẽ đề cập trong dịp sau.
	 KẾT LUẬN
1- Bên cạnh các kiểu kết hợp đã có như siêu (siêu lợi nhuận, siêu bền, siêu sao
bóng đá, cơm siêu rẻ, (TN)), hoá (phi đô la hóa, chuẩn hoá, cổ phần hoá, toàn cầu hoá,), tái (tái định cư, tái giải toả, tái hoạt động,), có sức sản sinh rất lớn, xu hướng mở rộng cách cấu tạo từ ngữ bằng các yếu tố tạo từ sẵn có, có khả năng đáp ứng được những yêu cầu định danh những khái niệm mới, tuy nhiên chúng ta cũng gặp không ít những từ ngữ mới được cấu tạo bằng những phương thức này song còn nhiều điều phải bàn bạc, xem xét, và cần phải chuẩn hoá, ví dụ như: Trang bị ngư lưới cụ (ngư cụ, lưới) để ra khơi (TT, 5/01/2002). Một áng văn xuôi mang nhiệt hứng tư tưởng và vẻ đẹp cổ điển (TT, 9/7/2001), v.v.
2- Một số lượng lớn từ vựng thuộc lớp từ khẩu ngữ đã được sử dụng phổ biến trên báo, tạo cảm giác gần gũi và phản ánh được "hơi thở" của cuộc sống. Chẳng hạn như:
Môn lặn có cửa kiếm huy chương ở SEA games. (TT, 6/5/2001); Tàu đánh bắt xa bờ phải trùm mền  (TT,9/11/2001); Tạo điều kiện giúp H rút ruột Nhà Nước (NLĐ, 10/11/2002), 
Bên cạnh đó, qua báo chí những thuật ngữ chuyên ngành, các thuật ngữ vay mượn từ nước ngoài cũng ngày càng trở nên quen thuộc với tất cả mọi tầng lớp nhân dân, chẳng hạn như: Phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, ngân hàng tinh trùng, mổ nội soi, miễn nhiễm sinh học, kinh tế tri thức, chính phủ điên tử, hiệp định thương mại, thuế giá trị gia tăng, môi giới chứng khoán, toàn cầu hoá, đào tạo qua mạng, 
3- Phương thức cấu tạo từ ngữ tiếng Việt bằng cách vay mượn dưới các hình thức khác nhau từ các ngôn ngữ khác nhau, nhất là từ tiếng Anh, và tiếng Hán là một xu hướng đang diễn ra mạnh mẽ. Như đã nói, đây là một hiện tượng bình thường, song cũng cần cẩn trọng trong chọn lọc để tránh việc vay mượn tràn lan, ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt. 
CHUÙ THÍCH
(1) (TN, 5/11/2002) nghĩa là: Ví dụ này được trích từ Bu! Thanh Niên ra ngày 5 tháng 11 năm 2002. 
(2) Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng –Trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, 1996. 
(3) (NLĐ, 8/5/2002) nghĩa là: Ví dụ này được trích từ báo Người Lao Động ra ngày 08 tháng 05 năm 2002. 
(4) (TT,27/9/2001) nghĩa là: Ví dụ này được trích từ báo Tuổi Trẻû ra ngày 27 tháng 9 năm2001. 
(5) (SGGP,24/10/2002) nghĩa là: Ví dụ này được trích từ báo Sài Gòn Giải Phóng ra ngày 24 tháng 10 năm2002. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chu Bích Thu. Một vài hướng phát triển từ vựng và vấn đề chuẩn hoá, Tạp chí Ngôn ngữ, Hà Nội, số 3, 2001.
Lê Bá Miên. Xu hướng tạo từ mới của tiếng Việt hiện nay, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 9, 2000. 
Lê Biên. Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục, 1999.
Nguyễn Thiện Giáp. Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, 1998.
Nguyễn Ngọc Trâm. Từ Hán-Việt trong sự phát triển từ vựng tiếng Việt giai đoạn hiện nay, Tạp chí Ngôn ngữ, số 5, 2000. 
SUMMARY:
SOME METHODS IN CREATING WORDS IN THE MODERN VIETNAMESE LANGUAGE (According to the surveys on the Vietnamese language used in some newspapers which were published in Hồ Chí Minh city)
Đào Mục Đích, MA.
In our country’s time of opening and integration to the world, with more chances of communicating to the international community, the Vietnamese language has been quickly developed to become a more updated, diversified and richer language which satisfies human beings’ needs of communication and thinking So the research into the new phenomenon of Vietnamese language especially in creating new words is very important. This report is based on the surveys on the usage of Vietnamese language in the Youth newspaper. We firstly analyze three new following methods:
1. Extending the meaning of an existing word
2. Extending a new word from its old form
3. Borrowing from foreign languages, especially from English language

Tài liệu đính kèm:

  • docNCKH.Phuong-thuc-tao-tu-ngu-trong-Tieng-Viet-hien-dai.up.NLS.doc