Tóm tắt tác phẩm văn học Việt Nam lớp 12

Tóm tắt tác phẩm văn học Việt Nam lớp 12

I . Tác phẩm học chính khoá:

1. Tuyên ngôn độc lập : ( Hồ Chí Minh )

Bản tuyên ngôn mở đầu bằng những câu trích dẫn từ "Tuyên ngôn độc lập" của Mỹ, " Tuyên ngô nhân quyền và nhân quyền" của Pháp để khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Tiếp đó, bản tuyên ngônlên án tội ác của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam troing đó hơn 80 năm chúng xâm lược chúng ta. Đó là tội ác về kinh tế , chính trị , văn hóa, tội bán nưo81c hai lần cho Nhật. Bản tuyên ngôn nêu cao cuộc đấu tranh chính nghĩa và thắng lợi của nhân dân ta. Bản tuyên ngôn kết thúc bằng lời tuyên bố quyền độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập tự do của toàn dân tộc.

 

doc 6 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1878Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Tóm tắt tác phẩm văn học Việt Nam lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÓM TẮT TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM
I . Tác phẩm học chính khoá : 
1. Tuyên ngôn độc lập : ( Hồ Chí Minh )
Bản tuyên ngôn mở đầu bằng những câu trích dẫn từ "Tuyên ngôn độc lập" của Mỹ, " Tuyên ngô nhân quyền và nhân quyền" của Pháp để khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Tiếp đó, bản tuyên ngônlên án tội ác của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam troing đó hơn 80 năm chúng xâm lược chúng ta. Đó là tội ác về kinh tế , chính trị , văn hóa, tội bán nưo81c hai lần cho Nhật. Bản tuyên ngôn nêu cao cuộc đấu tranh chính nghĩa và thắng lợi của nhân dân ta. Bản tuyên ngôn kết thúc bằng lời tuyên bố quyền độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập tự do của toàn dân tộc.
2. Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc :
( Phạm Văn Đồng )
Phần 1 : Đặt vấn đề cho bài viết. Tác giả nêu luận điển xuất phát: Phải có cái nhìn đúng về văn chương Nguễyn Đìng Chiểu và thơ văn của ông. Cách nhìn đó là: " Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường , nhưng con mắt chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thấy càng sáng.thơ văn Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy"
Phần 2 : Giải quyết vấn đề : Tác giả nêu các luận điểm bổ sung để chứng minh cho luận điểm xuất phát: cách nhìn đúng đắn đó được cụ thể hoá qua cách đánh giá( của tác giả) về :
+ Cuộc đời và quan niệm sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.
+ Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu ( chủ yếu là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
+ Tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên – Tác phẩm phổ biến , đặc sắc của NĐC ( cả nội dung và nghệ thụât). 
Phần 3 : Kết thúc vấn đề : ( Luận điểm kết luận, cái đích của bài viết)
Đánh giá đúng vị trí của NĐC trong nền văn học dân tộc theo cách nhìn mới mẻ đã nêu ở phần đầu: " NĐC là một chí sĩ yêu nước, một nhà thơ lớn của nước ta. Đời sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao đại vị và tác dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trân mặt trận văn hoá và tư tưởng".
3. Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003 (Cô-phi-an-nan)
1) Mở đầu :
Nhắc lại việc cam kết của các quốc gia trên thế giới để đánh bại căn bệnh HIV/AIDS vào năm 2001 và Tuyên bố về cam kết phòng chống HIV/AIDS của quốc gia đó.
2) Nhìn lại tình hình thực hiện phòng chống HIV/AIDS:
- Đã có một số dấu hiệu của chúng ta về nguồn lực, ngân sách, chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS.
- Song hành động của chúng ta vẫn quá ít so với yêu cầu thực tế, dịch HIV/AIDS vẫn hoành hành gay tử vong trên thế giới và có rất ít dấu hiệu suy giảm. Trong năm qua, cứ mỗi phút trôi qua có 10 người nhiễm HIV, và đại dịch này đang lây lan với tốc độ báo động ở phụ nữ , đang lan rông nhanh nhất ở chính khu vực mà trước nay hình như vẫn còn an toàn- đặc biệt là Đông Âu và toàn bộ Châu Á, từ dãy núi U-ran đến Thái Bình Dương.
- Không hoàn thành được một số mục tiêu đề ra trong Tuyên bố về Cam kết phòng chống HIV/AIDS và với tiến độ như hiện nay, chúng ta sẽ không đạt được bất cứ mục tiêu nào năm 2005.
3) Nhiệm vụ cấp bách , quan trong hàng đầu là tích cực phòng chống AIDS
- Phải nổ lực thực hiện cam kết của mình bằng những nguồn lực và hành động can thiết.
- Phải đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động .
- Phải công khai lên tiếng về AIDS
- Không được kì thị và phân biệt đối xử đối với những người sống chung với HIV/AIDS.
- Đừng một ai ảo tưởng rằng chúng ta có thể bảo vệ được chính mình bằng cách dựng lên cách bức tường rào ngăn cách " giữa chúng ta và họ".
- Trong thế giới khốc liệt này không có khái niệm chúng ta và họ. Trong thế giớio đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết. Có nghĩa là phải hành động để chống lại đại dịch AIDS đang đe doạ mọi người trên hành tinh này, không trừ một ai.
4) Kết thúc : Lời kêu gọi phòng chống HIV/AIDS :
- Tôi kêu gọi các bạn hãy cùng với tôi lên tiếng thật to và hãy dõng dạc về HIV/AIDS .
- Hãy cùng chúng tôi giật đổ thành luỹ của sự im lặng, kì thị và phân biệt đối xử đang vây quanh căn bệnh này.
- Hãy sát cách cùng chúng tôi, bởi lẽ cuộc chiến chống lại HIV/AIDS bắt nguồn từ chính các bạn.
4. Người lái đò sông Đà ( Nguyễn Tuân )
 Thiên nhiên Tây Bắc được tô điểm bởi con sông đà vừa hung bạo trữ tình. Sơng Đà cĩ lúc dịu dàng như người phụ nữ kiều diễm.Nước sơng Đà thay đổi theo mùa phản chiếu trời xuân nắng thu « Mùa xuân dịn xanh ngọc bích,mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa » .Dọc theo sơng Đà,cĩ lắm thác nhiều ghềnh,cĩ đá dựng vách thành,cĩ đá tảng,đá hịn bày thế thạch trận,tạo nên cửa sinh cửa tử.Nổi bật trên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ,đầy sức sốngdĩ là hình ảnh ơng lái đị sơng Đà.Đĩ là một người mang vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân lao động vùng sơng nước với thân hình cao to,nước da rám nắng.Ơng làm nghề lái đị đã nhiều năm,từng gắn bĩ với dịng sơng Đà,hiểu được tính khí của nĩ.Ơng thuộc nằm lịng từng con thác lớn,thác nhỏ,từng vách đá,luồng nước,từng cửa sinh cửa tử do thế thạch trận tạo nên .Ơng đã dùng kinh nghiệm nghề nghiệp cộng với sự cần cù gan dạ đưa con thuyền vượt thác nước sơng Đà đầy nguy hiểm.Ơng đã đưa nhiều chuyến hàng về xuơi an tồn để gĩp phàn vào cuộc sống.
Sau khi vượt sơng Đà ,ơng lái đị trở về cuộc sống đời thường thanh thản của mình,ơng neo thuyền chổ khúc sơng bình lặng và nấu ống cơm lam,bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh.
5. Ai đã đặt tên cho dòng sông ( Hoàng Phủ Ngọc Tường )
Bài bút kí đã ca ngợi vẻ đẹp của sơng Hương gắn liền với xứ hú mơ mộng đã đi vào lịng người và với truyền thống lịch sử xứ Huế 
Lúc ở thượng nguồn, sơng Hương cĩ vẻ đẹp mãnh liệt và hoang dại ,cĩ nhiều ghềnh thác đáy vực bí ẩn.Cĩ thể xem sơng Hương như bản trường ca của rừng già
Lúc về đồng bằng ,sơng Hương thơ mộng làm say đắm lịng người.Hai bên bờ sơng Hương chĩi lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên.Dịng sơng mềm như tấm lùa uốn cong ,cảnh đẹp như bức tranh cĩ đường nét,hình khối « trơi đi giũa hai dãy đồi sừng sửng như thành quách »,  « cao đột ngột như VỌNG CẢNH, TAM THAI,LƯU BẢO ».Sơng hương cĩ vẻ đẹp da màu biến ảo : « sớm xanh,trưa vàng ,chiều tím »
Lúc qua thành phố huế,sơng Hương « trơi đi thực chậm »,chảy lặng lờ như điệu slow.Sơng Hương « đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya ».Trên sơng vọng lại tiếng hát trong một khoang thuyền nào đĩ.Sơng Hương mang vẻ đẹp vừ trữ tình,vừa trầm mặc gắn liền với lịch sử bi tráng của dân tộc mà trên thế giới khơng cĩ dịng sơng nào như thế.Và trước về với biển sơng hương lưu luyến tình cảm với thành phố Huế ví như nỗi vấn vươn của nàng Kiều với Kim Trọng.
6. VỢ CHỒNG A PHỦ: ( TÔ HOÀI )
Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị, khơng đủ tiền cưới phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mẹ Mị đã chết, bố Mị đã già mà mĩn nợ mỗi năm phải trả lãi một nương ngơ vẫn cịn. Năm đĩ, ở Hồng Ngài tết đến, A Sử con trai thống lí Pá Tra lừa bắt cĩc được Mị về làm vợ cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt nợ. Khổ hơn con trâu con ngựa, lùi lũi như con rùa trong xĩ cửa. Mị toan ăn lá ngĩn tự tử. Thương cha già, Mị chết khơng đành. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Một cái tết nữa lại đến. Mị thấy lịng phơi phới. Cơ uống rượu ực từng bát, rồi chuẩn bị lấy váy áo đi chơi. A Sử đã trĩi đứng Mị bằng một thúng sợi đay.
    	A Phủ vì tội đánh con quan nên bị làng phạt vạ một trăm bạc trắng. A Phủ trở thành người ở nợ cho Pá Tra. Một năm rừng động, A Phủ để hổ bắt mất một con bị. Pá Tra đã trĩi đứng anh vào một cái cọc bằng một cuộn mây. Mấy ngày đêm trơi qua, A Phủ sắp chết đau, chết đĩi, chết rét thì được Mị cắt dây trĩi cứu thốt. Hai người trốn đến Phiềng Sa nên vợ nên chồng. A Phủ gặp cán bộ A Châu kết nghĩa làm anh em được giác ngộ trở thành chiến sĩ du kích đánh Pháp.
7. VỢ NHẶT : ( KIM LÂN) 
Cụ Tràng ở xĩm ngụ cư, làm nghề kéo xe bị chở thuê. Đã nhiều tuổi, thơ kệch, cĩ tính vừa đi vừa nĩi lảm nhảm như kẻ dở hơi. Bà cụ Tứ mẹ hắn nghèo khổ. Hai mẹ con ở trong một mái nhà tranh vắng teo, rúm rĩ. Trận đĩi kinh khủng đang diễn ra, người chết đĩi như ngả rạ. Một lần kéo xe thĩc Liên đồn lên tỉnh, hắn hị một câu vượt dốc rất tình. Một cơ gái ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, liếc mắt cười tít. Lần thứ hai, Tráng gặp lại thị, trơng khác hẳn, thị gầy sọp hẳn đi, áo quần tả tơi như tổ đỉa. Một vài câu trách mĩc, mời chào, thị ăn một chập 4 bát bánh đúc do Tráng đãi. Mua một cái thúng và 2 hào dầu, Tráng dẫn thị về nhà ra mắt mẹ. Xĩm ngụ cư ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà xa lạ đi theo Tráng họ bàn tán, cĩ phần lo ngại. Trong nhá nhem tối, bà cụ Tứ gặp và nĩi chuyện với nàng dâu mới. Lần đầu nhà Tráng cĩ dầu thắp đèn Tiếng ai hờ khĩc người chết đĩi ngồi xĩm lọt vào. Sáng hơm sau, bà mẹ chồng và nàng dâu mới quét dọn trong nhà ngồi sân. Bữa cơm – cháo cám – đĩn nàng dâu mới. Bà cụ Tứ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu, nĩi tồn chuyện vui, tồn chuyện sung sướng sau này. Lại một buổi sáng. Tiếng trống thúc thuế dồn dập. Quạ đen bay vù như mây đen. Thị nĩi về chuyện Việt Minh phá kho thĩc Nhật. Tráng nhớ lại lá cờ đỏ bay phấp phới hơm nào
8.RỪNG XÀ NU ( NGUYỄN TRUNG THÀNH)
  Sau 3 năm đi “lực lượng”, Tnú về thăm làng. Bé Heng gặp anh ở con nước lớn dẫn anh về. Con đường cũ, hai cái dốc, rừng lách chằng chịt hố chơng, hầm chơng, giàn thị sắc lạnh. Mặt trời chưa tắt thì anh về đến làng. Cụ Mết già làng và bà con dân làng reo lên mừng rỡ. Cụ Mết đưa anh về nhà ăn cơm. Từ nhà ưng vang lên một hồi, ba tiếng mõ dài, cả lũ làng cầm đuốc kéo tới nhà cụ Mết gặp Tnú. Cĩ ơng bà già. Nhiều trai tráng và lũ con gái. Đơng nhất là lũ trẻ con. Cĩ cả cơ Dít, em gái Mai, nay là bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã hội. Ai cũng muốn ngồi gần anh Tnú. Dít thay mặt lũ làng xem giấy cĩ chữ ký chỉ huy cho phép Tnú về thăm làng một đêm. Quanh bếp lửa rộn lên: “Tốt lắm rồi!” “Một đêm thơi, mai lại đi rồi, ít quá, tiếc quá!”. Rồi cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú cho lũ làng nghe. Tiếng nĩi rất trầm. “Anh Tnú đĩ, nĩ đi Giải phĩng quân đánh giặc Đời nĩ khổ, nhưng bụng nĩ sạch như nước suối làng ta”. Anh Xút bị giặc treo cổ, bà Nhan bị giặc chặt đầu, nĩ và em Mai đi vào rừng nuơi anh Quyết cán bộ. Anh dạy nĩ học chữ. Nĩ học chữ thì hay quên nhưng đi rừng làm liên lạc thì đầu nĩ sáng lạ lùng. Nĩ vượt thác, xé rừng mà đi, lọt tất cả vịng vây của giặc. Một lần Tnú vượt thác Đắc nơng thì bị giặc bắt, bị tra tấn, bị đầy đi Kơng Tum. Ba năm sau, Tnú vượt ngục trốn về, lưng đầy thương tích. Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi cho dân làng Xơ Man trước khi anh tử thương. Tnú đi bộ lên núi Ngọc Linh đem về một gùi đá mài. Đêm đêm làng Xơ Man thức mài vũ khí. Thằng Dục chỉ huy đồn Đắc Hà đưa lũ ác ơn về vây ráp làng. Tiếng kêu khĩc vang dậy. Cụ Mết và trai tráng lánh vào rừng, bí mật bám theo giặc. Bọn giặc đã giết chết mẹ con Mai. Tay khơng ra cứu vợ con, Tnú bị giặc bắt. Chúng lấy nhựa xà nu đốt cháy 10 ngĩn tay anh. cụ Mết và lũ thanh niên từ rừng xơng ra, dùng mác, và rựa chém chết tất cả 10 tên ác ơn. Thằng Dục ác ơn và xác lũ lính ngổn ngang quanh đống lửa trên nhà ưng. Từ đĩ, làng Xơ Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng. Sau đĩ, Tnú ra đi tìm cách mạng”
   	 Cụ Mết ngừng kể, rồi hỏi Tnú đã giết được mấy thằng Diệm, mấy thằng Mĩ rồi? Anh kể chuyện đánh đồn, xơng xuống hầm ngầm dùng tay bĩp chết thằng chỉ huy thằng Dục, “đúng chớ chúng nĩ đứa nào cũng là thằng Dục!”. Mưa rơi nặng hạt. Khơng ai nhận thấy đêm đã khuya. Sáng hơm sau cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường. Ba người đứng nhìn những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời
9. NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH : ( NGUYỄN THI)
Việt quê ở Bến Tre. Chị gái là Quyết Chiến, hai chị em cùng đi bộ đội một ngày. Trong một trận đánh lớn trong rừng cao su, Việt dùng thủ pháo diệt một xe bọc thép Mĩ. Nhưng Việt đã bị thương nặng, ngất đi trên chiến trường, bị lạc đơn vị ba ngày đêm. Tỉnh rồi lại mê, mê rồi lại tỉnh, anh nhớ lại những kỷ niệm vui, buồn tuổi thơ, nhớ lại ba má, anh chị em, nhớ chú Năm. Cả ba lẫn má đều hy sinh trong chiến tranh. Việt và chị Chiến ra đi đánh giặc để báo thù cho ba má, để giải phĩng quê hương, tiếp tục trang sử anh hùng của gia đình. Anh Tánh dẫn tiểu đội đi tìm Việt suốt 3 ngày, mấy lần đụng địch, lục suốt mặt trận dài dặc mới gặp được Việt và đưa về bệnh viện quân y. Lúc vết thương sắp lành, anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến. 
10. Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn Minh Châu ).
Nhiếp ảnh Phùng đã từng tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ. Anh được trưởng phòng phân công xuống vùng biển để chụp một bức ảnh cảnh biển buổi sáng. Anh quan sát và giô máy bấm máy. Đó là một cảnh "đắt" trời cho. " Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng hồng của mặt trời chiếu vào". Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và rất đẹp. Nó đẹp như " bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ" . Phùng rất xúc động và nhận ra sự rung cảm của tâm hồn mình. Anh liên tưởng đến câu nói của ai đó " bản thân cái đẹp chính là đạo đức".
Ngay lúc ấy Phùng thấy mũi thuyền tiến thẳng vào bờ. Một người đàn ông và một người đàn bà rời thyền. Tiếng quát của người đàn ông :" Cứ ngồi yên nay. Động nay tao giết cả mày đi bay giờ". Người đàn bà cao lớn, đường nét thô kệch meat mỏi sau một đêm kéo lưới. Người đàn ôngcó tấm long rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ, lão đi chân chữ bát. Hai con mắt dữ tợn. Cả hai đến chỗ chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ bỏ lại. Người đàn ông trở nên hùng hổ, rút chiếc thắt long trongngười quật tới tấp vào long người đàn bà, vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn : " Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ". Giưã lúc ấy thằng Phác ( con của cặp vợ chồng) lao ra như một mũi tên. Phùng cũng lao tới. Khi anh tới nơi thì chiếc dây da name trong tay thằng Phác. Nó đánh vào ngực bố nó. Lão đàn ông giằng lại chiếc dây thắt long không được liền dang thẳng cách tay cho thằng bé 2 cái tát . Lão bỏ về thuyền , hai mẹ con ôm nhau khóc.
Ba hôm sau Phùng lại chứng kiến một cảnh tương tự. Chỉ có khác là chị thằng Phác giằng được con dao mà thằng em trai địng dùng làm vũ khí để bảo vệ bà mẹ. Không thể chịu được, Phùng xông ra buộc lão đàn ông chấm dứt hành động độc ác. Lão đánh trả, Phùng bị thong phải đưa vào bệnh xá của toà án huyện.Tại đây anh biết được cảnh ngộ qua lời tâm sự của người đàn bà hàng chài. Anh ngạc nhiên và thực sự thông cảm. Anh và chánh an Đẩu vỡ ra một điều nghịch lí , khôngcó trong sách sở nhưng phải chấp nhận. Sau đó anh trở về phòng văn hoá , suy nghĩ về tấm ảnh chụp được trong lốc lịch. 
11. Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt ( Lưu Quang Vũ ): Gồm 7 cảnh 
Trương Ba giỏi đánh cờ , bi Nam Tào bắt chết nhầm. Vi muốn sửa sai, Nam Tào và Đế Thích cho hồn TB nhập vào xác anh hàng tḥt rồi chết. Trú nhờ linh hồn trong thể xác anh hàng tḥt, TB gặp nhiều điều phiền toái: Lí trưởng sách nhieu kiến con trai TB phải đưa hối lộ cho lí trưởng , để đến nửa đêm TB mới được rời nhà anh hành tḥt về nhà ḿnh; chi hàng tḥt thi đòi chồng lại. Trong con mắt người thân, từ vợ ,con dâu đến cháu gái , TB trở thành kẻ xa lạ
TB đau khổ vi phải sống trái tự nhiên, giả tạo. Hồn TB bi thể xác hồn tḥt xui khiến, dần dần bi nhiem một số thói xấu, nhung cái tầm thường của anh đồ tể. Yù thức được điều đó, linh hồn TB giằn vặt đau khổ và đi đến quyết đinh chống lại bằng cách tách linh hồn ra khỏi thể xác anh hàng tḥt . Xác hàng tḥt chế gieu , ve van hồn TB thỏa hiệp.
Đế thích đ̣nh giúp hồn TB nhập vào xác cu Ti, TB kiên quyết từ chối, xin cho cu Ti được sống, đồng thời trả xác lại cho anh hàng thit và chấp nhận cái chết.
II. Tác phẩm đọc thêm :
1. Những ngày đầu tiên của nước Việt Nam mới ( Võ Nguyên Giáp ):
4 ®o¹n :
- §o¹n 1 : Tõ ®Çu ®Õn "Ëp vµo miỊn B¾c" : T­ thÕ ®øng v÷ng m¹nh, hiªn ngang cđa d©n téc thêi chèng MÜ, t¸c gi¶ håi t­ëng vỊ "giê phĩt hiĨm nghÌo" cđa n­íc ViƯt Nam míi.
- §o¹n 2 : TiÕp theo ®Õn "thªm trÇm träng" : Nh÷ng khã kh¨n mäi mỈt cđa ®Êt n­íc t­ëng khã cã thĨ v­ỵt qua.
- §o¹n 3 : TiÕp theo ®Õn "Ba tr¨m b¶y m­¬i ki-l«-gam vµng : Nh÷ng biƯn ph¸p tÝch cùc cđa chÝnh quyỊn míi vµ quyÕt t©m v­ỵt qua mäi khã kh¨n thư th¸ch cđa toµn §¶ng, toµn d©n ta.
- §o¹n 4 : Cßn l¹i : H×nh ¶nh B¸c Hå nh­ sù t­ỵng tr­ng cho mét chÝnh thĨ míi, nhµ n­íc cđa d©n, do d©n, v× d©n.
2. Bắt sấu ở rừng U Minh Hạ ( Sơn Nam )
Truyện kể về tài bắt sấu của ông năn Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang. Nghe tin ngọn rạch Cái Tàu có cái ao sấu " nhiều như trái mù u chin rụng " , ông năm Hên tìm đến để bắt sấu cho dân làng ở đó. Và ông đã bắt sấu bằng tay không ! Chỉ can một người dẫn đường đến cái ao cá sấu. Trên xuồng đi bắt cá sấu cũng chỉ có một loin nhang trần và một hũ rượu. Vậy mà , chỉ một giờ đồng hồ sau, Tư Hoạch (người dẫn đường) đã bơi xuồng về như dạo mát , kéo theo sau chiếc bè quái dị được kết bằng 45 con cá sấu còn sống nhăn, con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như một khúc cây khô dài. Bà con chưa heat ngạc nhiên , khâm phục thì ở mé rừng , ông năm Hên đã xuất hiện như tướng ông thầy pháp, " áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua, quơ lại trên tay". Có một vẻ gì như thần bí, nhưng thực chất đây cũng là một " nghệ sĩ tay không bắt sấu" ở rừng U Minh Hạ.
3. Mùa lá rụng trong vườn : ( Ma Văn Kháng)
Chuyện xảy ra ngay trong gia đình ông Bằng , một gia đình được coi là nền nếp, luôn giữ gia pháp, gia phong ngay trở nên chao đảo trước những thay đổi lớn của XH.những con người hôm qua chấp nhận hy sinh nay lại rơi vào quyền lực của tiền tài (Lí), có người hôm qua là anh hùng nay trở nên lạc lõng ( Đông). Có người xưa là bộ đội nay trốn sang nước ngoài ( Cừ)Nhưng cũng có những người trong gia đình giữ vững được truyền thống gia đình như ông Bằng ,chị Hoài . Chị Hoài - người con dâu trưởng gia đình ông Bằng, vợ anh cả Tường liệt sĩ- nay có gia đình riêng,nhưng vẫn gắn bó sâu sắc với gia đình nhà chồng trước. Ơû nông thôn, công việc bận rộn quanh năm , lại là chủ nhiệm hợp tác xã , mẹ của 4 đứa con , nhưng đúng chiều 30 tết , chị vẫn lên Hà Nội thăm gia đình ông Bằng và cúng tất niên cùng với bố chồng và các em. Mọi người trong gia đình đều ngạc nhiên và mừng rỡ. Ông Bằng và chị Hoài không nén được xúc động trườc cuộc gặp gỡ cuối năm. Rồi cảnh cúng gia tiên nghiêm trang , thiêng liêng , sau đó là bữa cơm sum hợp gia đình chiều 30 tết đầm ấm , vui vẻTất cả đã nói lên nét đẹp tình người gắn bó với nhau- dù trong hoàn cảnh nào- và cả nét đẹp truyền thống văn hoá dân tộc trong ngày Tết Nguyên đán. 
4. Một người Hà Nội ( Nguyễn Khải )
Nhân vật trung tâm trung truyện ngắn là cô Hiền , một người Hà Nội bình thường. Cũng như những người Hà Nội bình thường khác, cô đã cùng HN , cùng đất nước trải qua những biến động, thăng trầm nhưng vẫn giữ được cốt cách HN , cái bản lĩnh văn hoá của người HN. C« sèng th¼ng th¾n, ch©n thµnh, kh«ng giÊu giÕm quan ®iĨm, th¸i ®é cđa m×nh víi mäi hiƯn t­ỵng xung quanh.
Thời trẻ, cô Hiền là một người tài hoa, yêu thích văn chương, giao du với đủ loại thanh niên con nhà giàu, nghệ sĩ văn nhân, nhưng khi chọ chồng cô không hề lãng main mà chọn ông anh giáo dạy cấp Tiểu học hiền lành , chăm chỉ . Cô tính toán kĩ lưỡng khi quản lí gia đình, dạy dỗ con cái từ cách ăn nói , đi đứng sao cho thể hiện được nét văn hoá của người HN 
Hoµ b×nh lËp l¹i ë miỊn B¾c, c« HiỊn nãi vỊ niỊm vui vµ c¶ nh÷ng c¸i cã phÇn m¸y mãc, cùc ®oan cđa cuéc sèng xung quanh: vui h¬i nhiỊu, nãi cịng h¬i nhiỊu, theo c« chÝnh phđ can thiƯp vµo nhiỊu viƯc cđa d©n qu¸ .... C« tÝnh to¸n mäi viƯc tr­íc sau rÊt kh«n khÐo vµ ®· tÝnh lµ lµm, ®· lµm lµ kh«ng ®Ĩ ý ®Õn nh÷ng ®µm tiÕu cđa thiªn h¹...
 MiỊn B¾c b­íc vµo thêi k× ­¬ng ®Çu víi chiÕn tranh ph¸ ho¹i b»ng kh«ng qu©n cđa MÜ. C« HiỊn d¹y con c¸ch sèng “biÕt tù träng, biÕt xÊu hỉ”, biÕt sèng ®ĩng víi b¶n chÊt ng­êi Hµ Néi. §ã cịng lµ lÝ do v× sao c« s½n sµng cho con trai ra trËn: “Tao ®au ®ín mµ b»ng lßng, v× tao kh«ng muèn nã sèng b¸m vµo sù hi sinh cđa b¹n. Nã gi¸m ®i cịng lµ biÕt tù träng”...
+ Sau chiÕn th¾ng mïa xu©n 1975, ®Êt n­íc trong thêi k× ®ỉi míi, gi÷a kh«ng khÝ x« bå cđa thêi kinh tÕ thÞ tr­êng, c« HiỊn vÉn lµ “mét ng­êi Hµ néi cđa h«m nay, thuÇn tuý Hµ Néi, kh«ng pha trén”. Tõ chuyƯn c©y si cỉ thơ ë ®Ịn Ngäc S¬n, c« HiỊn nãi vỊ niỊm tin vµo cuéc sèng ngµy cµng tèt ®Đp h¬n.

Tài liệu đính kèm:

  • docTom tat tat ca cac TP VHVN lop 12.doc