Phân tích Vợ nhặt - Kim Lân (2)

Phân tích Vợ nhặt - Kim Lân (2)

Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ngày 1/8/1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng , huyện

Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm.

Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn bắt đầu từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo “Tiểu

thuyết thứ bảy” và “Trung Bắc chủ nhật.” Một số truyện (“Đứa con người vợ lẽ”, ” Đứa con người cô đầu”,

”Cô Vịa” ) mang tính chất tự truyện, nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt

Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi về đề tài độc

đáo: tái hiện sinh hoạt văn hoá phong phú ở thôn quê (đánh vật, chọi gà, thả chim ). Các truyện: ”Đôi chim

thành”, ”Con mã quái”, ”Chó săn” kể lại một cách sinh động những thú chơi lành mạnh, qua đó thể hiện

một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng -những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa.

pdf 11 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 5187Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích Vợ nhặt - Kim Lân (2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Page 1 
VỢ NHẶT- KIM LÂN 
 Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ngày 1/8/1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng , huyện 
Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. 
Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn bắt đầu từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo “Tiểu 
thuyết thứ bảy” và “Trung Bắc chủ nhật.” Một số truyện (“Đứa con người vợ lẽ”, ” Đứa con người cô đầu”, 
”Cô Vịa”) mang tính chất tự truyện, nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt 
Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi về đề tài độc 
đáo: tái hiện sinh hoạt văn hoá phong phú ở thôn quê (đánh vật, chọi gà, thả chim). Các truyện: ”Đôi chim 
thành”, ”Con mã quái”, ”Chó săn” kể lại một cách sinh động những thú chơi lành mạnh, qua đó thể hiện 
một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng -những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng 
vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau Cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn 
chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam -mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. 
Những tác phẩm chính: ”Nên vợ nên chồng” (tập truyện ngắn 1955), ”Con chó xấu xí” (tập truyện ngắn 
1962). Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác 
phẩm hay. Là một cây bút vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm 
hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Nói như Nguyên Hồng, ông là nhà văn một lòng đi về với 
“đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn (Bước đường viết văn NXB Văn 
học Hà Nội 1971). (SGK Văn học 12) 
 Với một tâm hồn luôn hướng về cuộc sống và con người nông thôn, Kim Lân luôn đặt ra những vấn đề xã hội 
làng quê rất tự nhiên và gần gũi , dễ đi vào lòng người đọc. Đặc biệt dựa trên bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim 
Lân đã thể hiện tài năng của mình qua tác phẩm “Vợ Nhặt”_một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo, phản 
ánh cuộc sống nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời 
Pháp thuộc. Qua đó bày tỏ tiếng nói chung của những ngừơi nông dân trong thời chiến và những ao ước giản dị 
của họ , tạo nên sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc. 
 Ngay trong tựa đề, Kim Lân đã gợi sự tò mò cho người đọc. Chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện hệ trọng 
trong cả đời người, thế mà Kim lân lại dùng hình ảnh “Vợ Nhặt”, một sự gặp gỡ tình cờ và nhanh chóng tiến 
đến hôn nhân trong cái bối cảnh hiện thực của truyện ngắn là nạn đói mùa xuân Ất Dậu 1945, một trong những 
thời kỳ đen tối trong lịch sử. Kim Lân đã thổi vào tác phẩm thứ ánh sáng nhập nhoạng, mù mờ của một buổi tối 
chiều “chạng vạng.” Và thấp thoáng trong thứ ánh sáng đó là hình ảnh những con người “xanh xám như những 
bóng ma”, ”nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, ”những cái thây nằm cong queo bên đường”, một cuộc sống đang 
mấp mé bên bờ vực thẳm giữa sự sống và cái chết, một không khí “vẩn lên cái mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi 
gây của xác ngừơi.” Những yếu tố mở đầu cho tác phẩm đã gợi lên một không khí nặng nề, phản ánh được cuộc 
sống của người nông dân lúc bấy giờ mới khó khăn, cực nhọc đến dường nào, gây xúc động cho mỗi chúng ta 
khi ông cha ta đã trải wo những thời gian khó khăn, ăn “bo bo” thay gạo, chịu đói rét. 
 Trong khung cảnh đó, nhân vật Tràng hiện lên như một con người hoang sơ ngật ngưỡng bước đi trong ánh 
chiều tàn của một cuộc sống không ra cuộc sống. Tràng được Kim Lân miêu tả với diện mạo chung của người 
dân lúc bây giờ: hai con mắt gà gà, nhỏ tí, hai bên quai hàm bạnh ra, bộ mặt thì thô kệch, thân hình thì “vập 
vạp”, cùng với cái kiểu “ngửa mặt lên cười hềnh hệch”, ”cái đầu trọc nhẵn”, ”cái lưng to rộng như lưng gấu”, 
và cái áo nâu tàng vắt ở một bên tay, một hình ảnh hết sức hoang dã trong xã hội đói nghèo. Ngay cả nơi ở của 
Tràng cũng không kém phần hoang dã như thế: cành dong rấp cổng, tấm phên rấp che nhà, mảnh vườn lổn 
nhổn toàn cỏ dại, mà Tràng cũng chỉ là kẻ ngụ cư, loại người lúc bấy giờ bị coi khinh, ruồng bỏ, một thứ cỏ rác 
hương thôn. Và Kim Luân đã dùng sáng tạo nghệ thuật của mình, gây ra những bất ngờ cho người đọc ở đầu 
truyện : “Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một 
người đàn bà nữa. ”Một người đàn bà đã bước vào cuộc sống của Tràng. 
 Tràng có vợ. Người như Tràng mà có vợ. Cái “kẻ” mang bộ dạng giống như con gấu hoặc gốc cây xù xì, trần 
trụi ấy, lại trong một cuộc đời đang bị đẩy sát tới cái ranh giới phân chia giữa tồn tại và ko tồn tại thế kia, mà lại 
nhặt được “thứ” vốn biểu trưng cho hạnh phúc. Tràng có vợ một cách hiển hách, oanh liệt, cứ như một anh 
chàng tốt số, đào hoa: chỉ buông ra có một lời ỡm ờ tán tỉnh, mà “cô nàng” đã vội vã theo không. Tưởng đâu 
một truyện truyền kỳ về một thời thảm hại. Nhưng đó không phải là một chuyện cổ tích hay theo một mô tuýp 
chàng ngốc gặp tiên nữ, nhưng đây lại là một sự thật não lòng. Người vợ mà được Tràng nhặt về được trên 
đường đời thảm đạm cũng thuộc về một dạng người giống như Tràng. Chân dung của chị ta cũng là một bức ký 
họa khác với tự nhiên, với những đường nét tai hại cho người phụ nữ: “cái ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày 
 Page 2 
xám xịt”, “gầy xọp, rách mướt, ” áo quần tả tơi như tảo đỉa”, đấy là hình ảnh người đàn bà đã làm đảo lộn cuộc 
đời Tràng. Nhưng khéo nhất là những dòng được viết, Kim Lân cho ta nhận thấy:cái người phụ nữ đói rách kia 
còn xa mới có thể coi là hiền thục;làm sao mà Kim Lân có thể tả cái đanh đá, cái trơ của người đàn bà lao động 
nghèo tài thế, sinh động đến là như thế. Kim Lân cũng rất tài tình khi tả vợ của Tràng rất cong cớn nhưng 
không nanh nọc, trơ trẽn. Và cũng chính cái cong cớn, sưng sỉa, đanh đá, trơ trẽn kia, nó có thể sinh ra từ dốt 
nát, đói nghèo, tâm tối chứ tuyệt không sinh ra từ cái ác, cái xấu xa. 
 Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến nhau qua những lời yêu đại loại như: “Rích bố cu, hở”, ”Hà, ngon! 
Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”, ”Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe 
rồi cùng về. ” Đó là ngôn ngữ của tình duyên, hay cũng chỉ là bốn bát bánh đúc mà người đàn ông nổi hứng 
khao và người đàn bà cắm đầu ăn liền một chập, chẳng buông một lời trò chuyện gì. Bốn bát bánh đúc trong 
những ngày tháng đói kém, chúng đủ phép màu để làm hai con mắt trũng hoáy của người phụ nữ đói rách sáng 
lên. Có xót xa không, khi cái đói tuy mang lại nhiều đau khổ lại cũng có thể xe duyên cho một mối tình giữa hai 
tâm hồn cũng nghèo khó. Điều đó, ta nhận thấy dường như không có sự cách biệt giữa Kim Lân và người nông 
dân, nên ông mới có thể miêu tả người nông dân trong những năm nghèo đói mới chân thật đến như vậy, và 
những tình tiết có vẻ buồn cười thì bên dưới đó lại là những nỗi buồn và niềm thương cảm. Những trang viết về 
những con người “dưới đáy” thế này thì không làm ta khinh ghét họ mà xót thương và buồn cho họ vì họ không 
thể sống trong điều kiện tốt hơn trong cái xã hội mà được mọi người gọi là con người mà chính cái xã hội đó 
cũng đang từ bỏ họ, để mặc họ trong cái nghèo đói. Ở đây , tác giả không phải nói về những nét thấp kém của 
con người bộc lộ qua nhân hình và nhân cách. Ngược lại , với việc đặt nhân vật vào một khoảng sống mờ tối, 
lắt lay, nhà văn đã tìm ra một cơ hội song để biểu hiện nỗi bất diệt của niềm khao khát thèm được sống, được 
thương yêu và hy vọng. Niềm ao ước hạnh phúc đó không thể diệt trừ cái đói hay sự u tối của một tương lai 
không mấy sáng sủa và nó cũng không bị diệt trừ. Nó cứ âm thầm vươn lên từ đói khát, tối tăm và chính bởi thế 
mà nó trở nên cảm động và đáng qúy biết chừng nào. 
 Khi “nhặt” vợ về, Tràng không phải là không biết suy nghĩ: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có 
nuôi nổi không lại còn đèo bồng.” Nhưng rồi anh lại tặc lưỡi: “Chậc, kệ!” Một quyết định có vẻ rất tầm thường 
với một sự việc hết sức trọng đại trong thời điểm bấy giờ. Nhưng ta có thể hiều rằng, cái tặc lưỡi đó đồng nghĩa 
với việc là Tràng đã đánh cuộc với đời, với cái nghèo đói, để sống “đầy đủ” cuộc sống bình thường như mọi 
người. Đó là khát vọng làm người mà một kẻ thô kệch, chất phác như Tràng vẫn có đã khiến Tràng liều lĩnh 
một phen. Và Tràng cũng đã được đền bù: ”Trong một lúc, Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, 
tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa từng ngày, và quên cả những tháng ngày trước 
mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và ngừơi đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, 
chưa từng tấhy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay 
vuốt nhẹ trên sống lưng. ”Qua đó, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc: Khác với những người 
có đầu óc bi quan thường nghi, sự đói khát, nghèo khổ không làm giảm đi giá trị của lòng người. Bao giờ cái 
hạnh phúc được thương yêu cũng qúy hơn tất cả, ngay cả khi người ta tưởng như rằng không còn cần gì hơn là 
một miếng cơm ăn. 
 Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc. Và Kim Lân, hạnh phúc, đến lượt nó, lại có thể làm thay đổi 
cả một con người như chính Tràng chẳng hạn. Tràng hôm nay đã không còn giống như Tràng của những ngày 
hôm qua. Anh Tràng hôm nay ngượng nghịu, khổ sở, tay nọ xoa xoa mãi vai kia, chỉ vì đi bên một người đàn bà 
ở một nơi vắng vẻ, muốn buông một câu tình tứ mà chịu không sao nói nổi. Rồi đến khi vợ hỏi, anh chàng to 
xác ấy lại trả lời một cách đến là vô cùng ngờ nghệch, ngây thơ: ”Có một mình tui mấy u.” Ắt hẳn nhiều người 
sẽ cười Tràng, cũng đúng thôi, nhưng có ai đã từng sống qua mà không thấy: có những cái ngượng nghịu, cái 
ngẩn ngơ, những sự “khổ sở êm ái” chỉ đến với con người vào những phút giây thật là hạnh phúc. Cái xúc động 
mà Tràng đang có vào buổi lần đầu đi bên người vợ nhặt, ngẫm ra cũng không ít điều xót xa, cay đắng, nhưng ít 
nhất cũng là một thứ xúc động, lâng lâng, bồi hồi, biến người đàn ông thô nhám và chai sạn thành một đứa trẻ 
lớn tuổi hiền lành. 
 Cái chi tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế. Nó không chỉ là một sự việc buồn cười. Có lẽ cũng 
nên nhận ra dưới cái cười, một tiếng thở dài thương cảm cho những kiếp người mà cuộc đời khốn khổ đến mức 
việc mua có hai hào dầu là cũng đã là một cái gì hoang phí lắm, một cử chỉ có vẻ lãng mạn, ga-lăng lắm lắm. 
Nhưng dẫu sao thì Tràng đã có cái hãnh diện mà trước kia anh ta chưa từng có. cái hãnh diện được làm một 
người chồng, đuợc có một đêm tân hôn, được biết mùi vị tiêu hoang một chút để có lấy một lần sáng sủa trong 
cái thực tại mù mờ: “Hai hào đấy, đắt quá, có mà thôi chả cần”, một lời nói nghe sao mà thật tội nghiệp, nhưng 
trong cái tội nghiệp đó là một niềm vui không tầm thường, bởi trong hoàn cảnh như thế của Tràng lúc ấy, được 
 Page 3 
coi thường đồng tiền vì một đềiu gì đó lớn hơn, trong trẻo, qúy báu hơn đâu có thể cho là một niềm vui hạ 
cấp?” 
 Cũng có thể nghĩ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ mình với mẹ: “Kìa nhà  ... con tỏ ý không hiểu. 
Tràng tươi cười: 
- Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện cái đã nào. 
Bà lão lập cập bước vào. Người đàn bà tưởng bà lão già cả, điếc lác, thị cất tiếng chào lần nữa: 
- U đã về ạ! 
Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường. 
Tràng nhắc mẹ: 
- Kìa nhà tôi nó chào u. 
Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp: 
- Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là 
cái số cả... 
 Page 9 
 Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai 
oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn 
nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ 
xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? 
Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà 
lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con 
mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con... May ra mà qua khỏi 
được cái tao đoạn này(12) thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải 
chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được? 
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với "nàng dâu mới": 
- ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng... 
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn 
từ tốn tiếp lời: 
- Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết 
thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau. 
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong 
cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm(13) ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra 
một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc 
của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?... 
- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân. 
Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. người đàn bà khẽ nhúc 
nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật: 
- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái 
lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. 
Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá... 
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Tràng đứng ngoài thấy vậy, hắn bực 
mình quá hầm hầm bước vào trong nhà, đánh diêm đốt đèn. Thấy sáng, bà lão vội vàng lau nước mắt ngửng 
lên: 
- Có đèn đấy à? ừ thắp lên một tí cho sáng sủa... Dầu bây giờ đắt gớm lên ấy mày ạ. 
Bà lão đứng dậy uể oải sang giường bên kia nằm. Tràng làu bàu trong miệng: "Chán quá, chẳng đâu vào đâu tự 
nhiên cũng khóc!" 
Tiếng bà cụ Tứ bên kia nói với sang: 
- Hôm nào nghỉ ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan cái phên mà ngăn ra mày ạ. 
- Vâng. 
Tràng ngoan ngoãn đáp lời mẹ. Hắn toan quay lại bảo thị cởi áo đi nằm, nhưng thấy thị ngồi bần thần dưới chân 
giường tự nhiên hắn lại không dám. Hắn lẳng lặng ngồi xuống cái ghế bên cạnh, cả hai cùng sượng sùng chả 
biết nói gì. ánh đèn vàng đục ở góc nhà tỏa ra ấm áp và kéo dài hai cái bóng trên vách. Bên ngoài gió từ mặt 
sông thổi lên rì rào như tiếng người thầm thì nói chuyện. Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ 
khóc(14) ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ. Người đàn bà bỗng thở dài. Tràng quay lại khẽ hỏi: 
- Buồn à? 
- Không. 
- Gớm sao lúc này nói chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột. 
Thị lườm hắn không trả lời. Hắn xích lại cười cười: 
- Thôi khuya rồi đấy, ngủ đi. 
Thị giơ tay củng vào trán hắn: 
- Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ! 
Hắn cười khì khì, vươn cổ thổi tắt phụt ngọn đèn. Trong đêm khuya tiếng hờ khóc tỉ tê nghe càng rõ... 
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong 
giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải. 
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn 
cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay 
đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc 
quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên (15) ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang 
nước (16) vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót 
sạch. 
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng 
nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm 
động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ 
cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột 
 Page 10 
ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ 
con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà. 
 Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu: 
-Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn. 
-Vâng. 
Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu 
đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn(17) như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì 
mới làm dâu mà thị tu chí làm ăn không? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt 
bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn(18) thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có 
ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn. 
Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn 
với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão 
nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này: 
-Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. 
Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem... 
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. 
Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai 
bát đã hết nhẵn. 
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ: 
-Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ. 
Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh 
mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười: 
-Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán(19) đây, ngon đáo để cơ. 
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng 
cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vãn tươi cười, đon đả: 
-Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy. 
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ 
trong cổ. Bữa com từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi 
hờn len vào tâm trí mọi người. 
Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ 
hôt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen. 
Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng: 
-Trống gì đấy, u nhỉ? 
-Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống 
qua được đâu các con ạ... - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc. 
Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm: 
- Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à? 
Im lặng một lúc thị lại tiếp: 
-Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của 
Nhật, chia cho người đói nữa đấy. 
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lặi, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra 
chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật. 
Tràng hỏi vội trong miếng ăn: 
-Việt Minh phải không? 
-ừ, sao nhà biết? 
Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê 
Sộp. Đàng trước có lá cờ đỏ to lắm. 
Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ 
quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác. 
à ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu. 
Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy. 
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới... 
Kim Lân 
________________ 
(1) Lúc chạng vạng mặt người: Lúc chiều muộn, nhìn không rõ mặt người. 
(2) Ngụ cư: người quê ở nơi khác đến ngụ trú ngụ. 
(3) Tàng: cũ 
(4) Đội chiếu: Lấy cái chiếu, cuộn lại, buộc túm một đầu, chụp lấy đầu và cuộn quanh người mà đi để chống 
 Page 11 
rét. Đây là hình ảnh rất phổ biến ở miền Bắc nước ta thời kỳ có nạn đói khủng khiếp giết hại hơn hai triệu người 
vào mùa đông 1944 và mùa xuân 1945. 
(5) Còn mồ ma ông cụ Tứ: lúc cụ Tứ còn sống. 
(6) Tư lự: suy nghĩ và lo lắng. 
(7) Chỉ tầm phơ tầm phào: chỉ nói chơi, nói đùa. 
(8) Thóc liên đoàn: Liên đoàn là một tổ chức chuyên thu mua thóc cho Nhật hồi trước Cách mạng Tháng Tám 
1945. 
(9) Rích bố cu: tiền nhiều lắm (Tiếng Pháp phát âm theo lối bình dân). 
(10) Chợn: sợ. 
(11) Đèo bòng: mang thêm, vướng bận thêm vào một cái gì khó gỡ ra được. "Vì cam cho quýt đèo bòng. Vì em 
nhan sắc nên lòng nhớ thương..." (Ca dao). "Đôi ta chút nghĩa đèo bòng. Đến nhà, trước liệu nói sòng cho 
minh" (Truyện Kiều). 
(12) Tao đoạn này: Thời buổi này, giai đoạn này. 
(13) Đốt đống rấm: đốt cháy âm ỉ (thường là một đống chấu) cốt có khói để xua bớt tử khí. 
(14) Hờ khóc: khóc to, vừa khóc vừa kể lể. 
(15) Khươm mươi niên: rất lâu rồi. 
(16) Cái ang nước: dụng cụ đựng nước bằng gốm, thân tròn, miệng rộng giống như cái vại. 
(17)Chỏng lỏn: nói năng đanh đá, xấc xược; trái nghĩa với dịu dàng, lễ phép. 
(18) Xăm xắn: mau mắn, hăng hái. 
(19) Chè khoán: một thứ chè ngon nấu bằng đỗ xanh đãi sạch vỏ, nấu nhuyễn và đặc, đổ ra đĩa và xắt thành 
từng miếng. Có lẽ đây là tiếng địa phương vùng quê tác giả (giống như chè khó ở nơi khác). 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfVo Nhat Kim Lan.pdf