Phân tích Bên kia sông Đuống (1)

Phân tích Bên kia sông Đuống (1)

Dòng sông quê hương – cây đa, bến nước, con đò, hàng tre soi tóc, dòng sông đỏ nặng phù sa. - biết bao là nên thơ, nên nhạc! Trong điệp trùng hình ảnh ấy thuộc đề tài quê hương sông nước ấy, Hoàng Cầm gửi vào bài thơ “BBên kia sông Đuống” nổi tiếng. Vùng đất bên kia sông Đuống chính là quê hương sinh thành của nhà thơ. Hoàng Cầm là nhà thơ của xứ sở quê ông - một vùng quê tươi đẹp, trù phú, cổ kính, dồi dào truyền thống văn hóa dân gian.

doc 4 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1868Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích Bên kia sông Đuống (1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bên kia sông Đuống
Dòng sông quê hương – cây đa, bến nước, con đò, hàng tre soi tóc, dòng sông đỏ nặng phù sa... - biết bao là nên thơ, nên nhạc! Trong điệp trùng hình ảnh ấy thuộc đề tài quê hương sông nước ấy, Hoàng Cầm gửi vào bài thơ “BBên kia sông Đuống” nổi tiếng. Vùng đất bên kia sông Đuống chính là quê hương sinh thành của nhà thơ. Hoàng Cầm là nhà thơ của xứ sở quê ông - một vùng quê tươi đẹp, trù phú, cổ kính, dồi dào truyền thống văn hóa dân gian. 
ANH ĐƯA EM VỀ BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
Lời thơ vào bài mượt mà, giọng điệu trữ tình, chất thơ, chất nhạc êm đềm lắng đọng như dòng sông quê hương muôn đời hiền hòa, chảy trôi thanh bình qua một vùng quê xanh rờn ngô lúa:
	“Em ơi buồn làm chi
	Anh đưa em về Sông Đuống
	Ngày xưa cát trắng phẳng lì”
	“Em” là nhân vật phiếm chỉ, nhưng hình như không thể thiếu được trong hồn thơ Hoàng Cầm. “Em” có thể là người yêu, người bạn đồng hương khác giới, người trong mộng tưởng... và cũng có thể là sự phân thân của chính nhà thơ để đối thoại nội tâm. Nhưng dù là ai thì cũng rất đỗi thân thương, giúp nhà thơ bộc bạch tâm tình sâu lắng, tha thiết bằng một giọng nói mềm mại, trìu mến. Nhà thơ an ủi “em” chớ buồn và hứa “đưa em về sông Đuống”. Vậy là cô gái đang buồn. Nhắc đến nỗi buồn của “em” chẳng qua là để diễn đạt tâm tình của chính mình cho thêm sâu lắng, thêm mềm mại, thiết tha. Cho nên, nói “em” buồn thực chất cũng là nói “anh” buồn đó thôi! Buồn vì xa quê, buồn vì nhớ quê. Như thế, nỗi buồn ở đây chẳng phải là vô cớ, nó gắn với quê hương, gắn với chủ đề “Bên kia sông Đuống”. Vì lẽ đó, lời hứa của “anh” cũng hướng tới “sông Đuống”, như cố tạo cớ để “khoe” khéo quê mình! anh như muốn nói: Về sông Đuống thì em sẽ hết buồn vì sông Đuống đẹp lắm, nên thơ lắm, sông Đuống có khả năng giải tỏa nỗi buồn cho con người, cho em; sông Đuống là quê hương chúng mình (đoạn kết bài thơ: “em” về Kinh Bắc mắc áo điều trẩy hội, cho nên rất có thể “em” là cô gái bên kia sông Đuống). Cách vào bài của tác giả thật khéo, giàu cảm xúc trữ tình. Tiếp đến vẫn là lời tâm tình dịu ngọt của “anh” với “em”, nhưng thực chất là một cách giới thiệu vẻ đẹp của dòng sông: “Ngày xưa cát trắng phẳng lì”. Câu thơ chủ yếu vẽ cái hồn của thiên nhiên và cuộc sống hơn là miêu tả cụ thể. Hình tượng thơ gợi mở cảnh một vùng quê phẳng lặng, rộng rãi, êm đềm với đôi bờ “cát trắng phẳng lì”, phẳng không gì có thể phẳng hơn và mịn, cả sạch nữa, dẫm lên mát đôi bàn chân! Hình ảnh thơ còn gợi không khí quê hương yên bình, thanh nhàn, con người hiền hòa thơ mộng. Nhưng tất cả đã thuộc về “ngày xưa”! Đây là thời gian tâm lí vì cảnh thiên nhiên thanh bình, yên vui của sông Đuống chỉ vừa mới mất đi từ khi giặc tràn lên đốt phá. Cảm nhận ấy biểu hiện nỗi nhớ tiếc, xót xa cao độ, cảm thấy những gì đẹp đẽ của quê hương như đã trôi về quá khứ xa vời, không bao giờ trở lại, trở thành “ngày xưa” mất rồi!
	Một trong những hình ảnh sáng ngời trong hoài niệm nhà thơ là dòng sông Đuống lấp lánh:
	“Sông Đuống trôi đi
	Một dòng lấp lánh
	Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”
	Dòng thơ đâu chỉ có bốn tiếng, từng tiếng rơi xuống chậm, thong thả, trầm tĩnh: “Sông Đuống trôi đi”. Hình tượng thơ gợi ấn tượng về sự bất diệt của dòng sông. Muôn đời, sông Đuống vẫn thế, vẫn khoan thai “trôi đi”, tiến về phía trước, tuy lặng lẽ nhưng khôgn sức gì cản được. Một dòng sông dồi dào nội lực! Sông Đuống trong tâm tưởng nhà thơ còn là “một dòng lấp lánh”. Hai tiếng “lấp lánh” đã biến sông Đuống thành dòng ánh sáng. Đó có thể là ánh sáng rực rỡ của mặt trời phản chiếu xuống mặt nước, cũng có thể là ánh sáng ảo huyền của những đêm trăng thanh lan tỏa trên mặt sông. Đó cũng còn là cái lóe sáng của hoài niệm nhà thơ, làm cho hình ảnh sông rực sáng hơn bình thường. Câu cuối hiện hình một dáng sông mềm mại: “nằm nghiêng nghiêng”, dáng kín đáo, duyên dáng, mềm mại, giàu nữ tính. Đồng thời cồn chứa đựng tâm trạng khó nói, có gì như trông chờ hy vọng, có gì như phấp phỏng lo âu. Dáng nằm này được đặt trong kháng chiến trường kì. Nhờ đó, dòng sông trở thành một bộ phận của cuộc kháng chiến, dòng sông không chỉ chứng kiến mà còn chia sẻ và tham gia vào cuộc chiến đấu dài lâu ấy.
	Từ dòng sông, tác giả đưa chúng ta đến với phong cảnh đôi bờ, với nương dâu bãi mía xanh tươi:
	“Xanh xanh bãi mía bờ dâu
	Ngô khoai biêng biếc”
	Phép liệt kê “bãi mía”, “bờ dâu”, “ngô khoai” bổ sung thêm sự phong phú, bát ngát của cây trồng. Các từ “xanh xanh”, “biêng biếc” gợi màu sắc tốt tươi, dồi dào sức sống và mửo ra một khôgn gian rộng. Hình tượng thơ cho thấy cảnh trù phú của quê hương, sự màu mỡ của đất đai, vẻ xanh tốt của cây cối đôi bờ sông Đuống.
	Nhưng thật đau xót, tất cả những vẻ đẹp ấy đã không còn, kể từ khi giặc tràn đến. Vì thế:
	“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
	Sao xót xa như rụng bàn tay”
	“Đứng bên bày sông”, hinh ảnh hư cấu đau xót! (Thực tế lúc này “anh” – tác giả đang ở Việt Bắc xa xôi). Bên kia sông là quê hương đang quằn quại đau dớn dưới gót giày quân xâm lược. Nhân vật trữ tình đứng bên này sông, cách nhau một dải nước nhỏ mà hóa thành hai thế giới không thể vượt qua, uất ức và tiếc xót! Tiếp đến, hai câu hỏi tu từ dồn dập: “Sao nhơ tiếc”, “Sao xót xa” diễn tả nỗi đau dữ dội và mãnh liệt, dữ dội và mãnh liệt đến khó hiểu! Nỗi đau còn được so sánh “như rụng bàn tay”. Ở đây, nỗi đau tinh thần đã chuyển hóa thành nỗi đau thể xác, vừa cụ thể vằ dữ dội. Quê hương bị giặc tàn phá, tác giả cảm thấy như bàn tay của mình bị rụng. Với Hoàng Cầm, quê hương là một phần cơ thể, là máu thịt không thể tách rời. Tình yêu quê hương như thế, phải kể là rất sâu sắc vậy!
	Đoạn một là tiếng lòng yêu quê hương tha thiết, mãnh liệt cảu Hoàng Cầm trong một hoàn cảnh đặc biệt: Quê hương bị giặc tàn phá. Tình yêu ấy, hoàn cảnh ấy đã làm sống dậy một Kinh Bắc đẹp tươi, trù phú, thơ mộng và đã gieo vào lòng nhà thơ tâm trạng nhớ tiếc, xót xa đến xé ruột. Hình ảnh, từ ngữ, nhạc điệu, cách diễn đạt... ở phương diện nào, đoạn thơ nào cũng có nhiều thành công đáng nhớ. 

Tài liệu đính kèm:

  • docBen kia song Duong(2).doc