Trường THPT Nguyễn Trung Trực Tổ Ngữ văn
Tuần 9,10,11
Tiết: 26,27,28,29,30,31
Chủ đề: Kí hiện đại Việt Nam
(Bút kí và tuỳ bút)
I. MỤC TIÊU
1. Về năng lực:
- Nêu được một số đặc điểm hình thức và nội dung của thể loại kí (bút kí và tuỳ bút).
- Vận dụng tri thức đọc hiểu về thể loại kí để đọc và phân tích nét độc đáo về nội dung và
nghệ thuật của hai bài kí Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng
sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường;
- Tạo lập một văn bản kí bằng ngôn ngữ nói
- Vận dụng sự kết hợp các phương thức biểu đạt và các thao tác lập luận trong viết một
bài văn nghị luận thể loại kí.
2. Về phẩm chất: Trân trọng vẻ đẹp của non sông đất nước và con người Việt Nam
II. NỘI DUNG CHỦ ĐỀ
1. Tri thức đọc hiểu
1.1. Thể loại kí
Kí là một thể loại văn xuôi thường ghi lại sự việc và con người một cách xác thực.
Bút kí là một thể của kí, nằm trung gian giữa kí sự và tùy bút. Bút kí thiên về ghi lại một
cảnh vật mà nhà văn mắt thấy tai nghe, thường trong các chuyến đi. Bút kí tái hiện con người và
sự việc một cách phong phú, sinh động, nhưng qua đó biểu hiện khá trực tiếp khuynh hướng cảm
nghĩ của tác giả, có màu sắc trữ tình. Kết hợp linh hoạt các phương thức nghị luận, tự sự, trữ tình
nhưng tùy theo độ đậm nhạt khác nhau của các phương thức mà ta có bút kí chính luận, bút kí
tùy bút...
Tùy bút là một thể của kí đối lập với phóng sự. Nếu phóng sự thiên về tự sự với điểm tựa
là sự kiện, thì tùy bút nghiêng hẳn về trữ tình với điểm tựa là cái tôi của tác giả. Hình thức thể
loại này cho phép nhà văn phóng bút viết tùy theo cảm hứng, tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng, Trường THPT Nguyễn Trung Trực Tổ Ngữ văn
nhận xét, đánh giá, trình bày... Những chi tiết, con người cụ thể trong tác phẩm chỉ là cái cớ để
tác giả bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá, nhận xét của bản thân.
Kí cơ bản là khác với truyện (truyện dài, truyện vừa, truyện ngắn, tiểu thuyết) ở chỗ trong
tác phẩm kí không có một xung đột thống nhất, phần khai triển của tác phẩm chủ yếu mang tính
miêu tả, tường thuật. Đề tài và chủ đề của tác phẩm cũng khác biệt với truyện, nó thường không
phản ánh vấn đề sự hình thành tính cách của cá nhân trong tương quan với hoàn cảnh, mà là các
vấn đề trạng thái dân sự như kinh tế, xã hội, chính trị, và trạng thái tinh thần như phong hóa, đạo
đức của chính môi trường xã hội. Hơn nữa, kí thường không có cốt truyện.
1.2. Kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn nghị luận
- Có 6 phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận, hành chính-
công vụ.
- Trong văn nghị luận, phương thức biểu đạt nghị luận luôn giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên,
người làm văn nghị luận vẫn có thể và nên vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt tự sự,
miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, Việc vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn
nghị luận phải xuất phát từ yêu cầu và mục đích nghị luận.
- Nếu được sử dụng hợp lí và khéo léo, các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh có
thể làm cho bài (đoạn) văn nghị luận trở nên đặc sắc, có sức thuyết phục, hấp dẫn; từ đó, hiệu
quả nghị luận được nâng cao.
1.3. Kết hợp các thao tác lập luận trong văn nghị luận
- Có 6 thao tác lập luận: Bình luận, phân tích, chứng minh, giải thích, so sánh, bác bỏ.
- Viết một bài văn nghị luận cần kết hợp ít nhất 3 thao tác lập luận. Cách kết hợp ấy sẽ
giúp cho việc nghị luận đạt chất lượng cao hơn, có hiệu quả thuyết phục lớn hơn.
Khi thực hiện, có thể tiến hành theo các bước sau:
+ Xác định chủ đề
+ Xây dựng các luận điểm: Xác định mục đích xây dựng các luận điểm để lựa chọn vận
dụng kết hợp các thao tác lập luận phù hợp
+ Sắp xếp các lập luận tạo lập văn bản hoàn chỉnh.
2. Đọc hiểu văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) (Tiết 26,27)
Mục tiêu
- Nêu được một số đặc điểm hình thức và nội dung của thể loại ký (bút ký và tuỳ bút).
- Vận dụng kiến thức đọc hiểu về thể loại ký để đọc và phân tích nét độc đáo về nội dung
và nghệ thuật của hai bài ký Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
Cách thực hiện
- Giáo viên cung cấp tri thức đọc hiểu, yêu cầu và video cho học sinh; tổ chức cho học
sinh thảo luận, báo cáo; giáo viên gảng gải và kết luận
- Học sinh thực hiện theo yêu cầu của giáo viên Trường THPT Nguyễn Trung Trực Tổ Ngữ văn
2.1. Chuẩn bị
- Xem lại phần tri thức đọc hiểu để vận dụng vào đọc hiểu văn bản này.
- Cần chú ý khi đọc văn bản:
+ Tác giả viết văn bản trong hoàn cảnh nào?
+ Đối tượng được viết là gì? Nhà văn đã khai thác những khía cạnh nào của đối tượng?
+ Tác giả đã lựa chọn cách ghi lại bằng miểu tả, kể chuyện, phát biểu cảm nghĩ, Hay kết
hợp các yếu tố đó?
+ So sánh hình tượng sông Đà qua ngòi bút của Nguyễn Tuân với thực tế (Video giáo viên
cung cấp).
+ Thái độ, tình cảm của tác giả đối với các đối tượng được nói đến trong văn bản?
2.2. Đọc hiểu văn bản
* Tác giả Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình Hán học đã tàn, là một nhà văn tài hoa, uyên bác
và được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng Tiếng Việt.
Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo.
Ông chủ trương chủ nghĩa xê dịch không thích cuộc sống trầm lặng, bình ổn nên ông đi
suốt chiều dài đất nước để tìm những điều mới mẻ, độc đáo.
* Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ
Người lái đò Sông Đà rút từ tập tùy bút Sông Đà (1960) - kết quả của chuyến đi thực tế
Tây Bắc của Nguyễn Tuân 1958.
* Nội dung
- Sông Đà trên trang văn của Nguyễn Tuân hiện lên như một nhân vật có hai tính cách trái
ngược:
Hung bạo, dữ dằn: Cảnh “đá dựng thành vách”, những đoạn đá chẹt lòng sông như cái yết
hầu; cảnh “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè”; những hút nước
sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào; những thạch trận, phòng tuyến sẵn sàng
“ăn chết” con thuyền và người lái đò;
Trữ tình, thơ mộng: Dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc người thiếu nữ Tây
Bắc diễm kiều; nước Sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng; cảnh vật hai bên
bờ Sông Đà vừa hoang sơ nhuốm màu cổ tích vừa trù phú tràn trề nhựa sống;
Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến thiết tha đối với thiên nhiên
đất nước. Với ông thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận
và miêu tả Sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong
chế độ mới.
- Hình ảnh người lái đò: Trường THPT Nguyễn Trung Trực Tổ Ngữ văn
Là vị chỉ huy “cái thuyền sáu bơi chèo” trong cuộc chiến đấu không cân sức với thiên
nhiên dữ dội, hiểm độc (sóng, nước, đá, gió, ) Bằng trí dũng tuyệt vời và phong thái ung dung,
tài hoa, người lái đò “nắm lấy bờm sóng’, vượt qua trận thủy chiến ác liệt (đá nổi, đá chìm, ba
phòng tuyến trùng vi vây bủa, ) thuần phục dòng sông. Ông nhìn thử thách bằng cái nhìn giản
dị mà lãng mạn; bình tĩnh và hùng dũng ngay cả lúc đã bị thương.
Nguyên nhân chiến thắng của ông lái đò: Sự ngoan cường, dũng cảm và nhất là kinh
nghiệm sông nước.
Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đã tìm được nhân vật mới: Những con người
đáng trân trọng, ngợi ca không thuộc tầng lớp đài các “vang bóng một thời” mà là những người
lao động bình thường- chất “vàng mười của Tây Bắc”. Qua đây, nhà văn muốn phát biểu quan
niệm: Người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà có trong cuộc sống lao động thường
ngày.
* Nghệ thuật
- Những so sánh, ví von, liên tưởng độc đáo, bất ngờ và thú vị;
- Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao;
- Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi,
trữ tình,
* Ý nghĩa văn bản
Giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động ở miền Tây
Bắc của tổ quốc; thể hiện tình yêu mến, sự gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với đất nước và
con người Việt Nam.
Lưu ý khi đọc hiểu một văn bản thuộc thể loại kí:
Sức hấp dẫn của kí chính là ở khả năng tái hiện sự thật một cách sinh động của tác giả. Kí
ít chấp nhận sự hư cấu, do đó phải dựa vào những liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, tài hoa của
tác giả khi phản ánh sự vật, cuộc sống. Nhiều biện pháp tu từ, nhiều thủ pháp gọt giũa được
người viết tài hoa sử dụng tạo nên chất văn xuôi lãng mạn bay bổng của ngôn ngữ ký. Vì vậy,
khi đọc hiểu tác phẩm kí, ta không sa vào chi tiết, liệt kê chi tiết rồi nhận xét bình giá như đọc
hiểu truyện.
Khi đọc hiểu thể kí, ta vừa phải chú ý nghệ thuật trần thuật vừa phải xem xét cảm hứng
được bộc lộ, giãi bày qua mỗi sự việc, sự vật.
Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là tính chủ quan, chất trữ tình sâu đậm của cái tôi tác
giả. Cho nên, sức hấp dẫn của kí còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn của cái tôi ấy (thường là những
cái tôi phong phú, uyên bác, tài hoa, độc đáo ).
Những đặc trưng cơ bản trên đây của tác phẩm kí sẽ là điểm tựa cho giáo viên trong việc
giảng dạy tác phẩm kí theo đặc trưng thể loại.
3. Thực hành đọc hiểu Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) (Tiết 28,29) Trường THPT Nguyễn Trung Trực Tổ Ngữ văn
Mục tiêu
- Rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản thuộc thể loại kí của học sinh sau khi đã được giáo viên hướng
dẫn đọc hiểu văn bản Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân)
- Vận dụng kiến thức đọc hiểu về thể loại kí để đọc và phân tích nét độc đáo về nội dung và
nghệ thuật của bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Cách tổ chức
- Giáo viên cung cấp phiếu học tập, bảng hướng dẫn thực hiên, video và tổ chức cho học sinh
báo cáo, thảo luận, kết luận
- Học sinh đọc văn bản, hoàn thành phiếu học tập, báo cáo, thảo luận theo yêu cầu của giáo
viên
3.1. Chuẩn bị
- Kiến thức đọc hiểu văn bản ký
- Nghiên cứu sách giáo khoa và hoàn thành phiếu học tập
Yêu cầu Trả lời
Nét chính về phong cách tác giả HPNT
Chủ đề
Tác giả viết văn bản trong hoàn cảnh nào?
Đối tượng được viết là gì?
Nhà văn đã khai thác những khía cạnh nào của
đối tượng?
Tác giả đã lựa chọn cách ghi lại bằng miểu tả,
kể chuyện, phát biểu cảm nghĩ, Hay kết hợp
các yếu tố đó?
So sánh hình tượng sông Hương qua ngòi bút
của Hoàng Phủ Ngọc Tường với thực tế
(Video giáo viên cung cấp).
Thái độ, tình cảm của tác giả đối với các đối
tượng được thể hiện trong văn bản?
3.2. Đọc hiểu văn bản
* Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tri thức yêu nước, nhà văn gắn bó mật thiết với xứ Huế, có
vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực; chuyên viết về kí; sáng tác luôn có sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, nghị luận và tư duy đa chiều với một lối hành văn hướng nội,
súc tích mê đắm, tài hoa.
* Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ Trường THPT Nguyễn Trung Trực Tổ Ngữ văn
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” viết tại Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Tác
phẩm gồm 3 phần, đoạn trích trong sách giáo khoa là phần thứ nhất.
* Nội dung
- Thuỷ trình Hương giang
Ở nơi khởi nguồn: sông Hương có vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính, là “bản trường ca của rừng
già”, là “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, là “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá
xứ sở”.
Đến ngoại vi thành phố Huế: sông Hương như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa
cánh đồng Châu hoá đầy hoa dại” được người tình mong đợi đến đánh thức. Thuỷ trình của sông
Hương khi bắt đầu về xuôi tựa “một cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình đích thực của một người
con gái đẹp trong câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích.
Đến giữa thành phố Huế: sông Hương như tìm được chính mình “vui tươi hẳn lên” mềm
hẳn đi như một “tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Nó có những đường nét tinh tế, đẹp như
“điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, như “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”,
Trước khi từ biệt Huế: sông Hương giống như “người tình dịu dàng và chung thuỷ”. Con
sông như “nàng Kiều trong đêm tình tự”, “trở lại tìm Kim Trọng” để nói lời thề trước lúc đi xa
- Dòng sông của lịch sử và thi ca
Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu bao chiến công oanh
liệt của dân tộc.
Trong đời thường, sông Hương mang vẻ đẹp giản dị của “một người con gái dịu dàng của
đất nước” và mang vẻ đẹp đặc trưng của người con gái xứ Huế.
Sông Hương là dòng sông của thi ca, là nguồn cảm hứng bất tận của các văn nghệ sĩ và nó
không lặp lại mình trong sáng tác của các thi nhân.
* Nghệ thuật
- Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
- Ngôn từ phong phú, gợi hình và gợi cảm; câu văn giàu nhạc điệu.
- Các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hoá so sánh được sử dụng một cách hiệu quả,
* Ý nghĩa văn bản
Thể hiện những phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo về sông Hương; bộc lộ tình yêu
tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với dòng sông quê hương, với xứ Huế
thân thương.
3.3. So sánh hai tác phẩm Người lái đò sông Đà (Nguyễn Tuân) với Ai đã đặt tên cho dòng
sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Mục tiêu
- Củng cố kiến thức của hai tác phẩm;
- Học sinh có điều kiện để rèn luyện tư duy văn học theo thể loại qua làm văn nghị luận.
Cách thực hiện Trường THPT Nguyễn Trung Trực Tổ Ngữ văn
Giáo viên tổ chức cho học sinh so sánh hai tác phẩm trên những tiêu chí dựa theo đặc trưng thể
loại.
Tham khảo cách so sánh sau:
* Phát hiện và đánh giá được óc quan sát, trí liên tưởng tưởng tượng, năng lực sử dụng
ngôn ngữ của nhà văn trong hai tác phẩm.
Sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở khả năng tái hiện sự thật một cách sinh động của tác
giả. Nếu chỉ đơn thuần là ghi chép thì tác phẩm tùy bút sẽ hết sức khô khan, không gây được ấn
tượng đối với người đọc.
- Tác phẩm Người lái đò Sông Đà (Nguyễn Tuân)
Với hình tượng con sông Đà:
Khi khám phá vẻ hung bạo của con sông, cần nhận thấy liên tưởng nhất quán của Nguyễn
Tuân. Nhà văn hình dung sông Đà như một con thủy quái khổng lồ, có tâm địa đen tối, với biết
bao tướng dữ quân tợn vây quanh. Đã thế, con thủy quái mang tên sông Đà còn có hành động,
mưu mô ác độc đối với thuyền và người trên sông.
Như vậy, nhờ vào khả năng sử dụng ngôn ngữ liên ngành và trí tưởng tượng tài hoa của
tác giả, học sinh vừa hiểu về đặc điểm thực của sông Đà khi thác lũ, vừa bị cuốn hút vào tài năng
miêu tả của Nguyễn Tuân.
Khi khám phá vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông, lại cần phải phát hiện ra sự thay đổi
di chuyển điểm nhìn và cách miêu tả. Sông Đà không chỉ là thủy quái nữa, mà đã lột xác trở thành
người thiếu nữ có mái tóc tuôn dài, thành cố nhân đầy nỗi niềm lâu ngày gặp lại... Điểm nhìn đa
chiều bao quát vẻ đẹp của dáng sông, màu nước sông Đà bằng cái nhìn xuyên thời gian qua mấy
mùa trong năm; của bờ bãi hoang sơ mà nên thơ, của mặt nước lặng yên như tờ thảng hoặc đôi
con cá quẫy làm giật mình đàn hươu.
Với hình tượng ông lái đò: Nhân vật này không được khắc họa thành số phận như trong
tác phẩm tự sự. Thực ra, đó chỉ là một khoảnh khắc trên sông nước để qua đó Nguyễn Tuân tôn
vinh con người lao động trong thời kì mới - thời kì tái thiết đất nước xây dựng miền Bắc xã hội
chủ nghĩa.
Thực ra, Sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa để làm nền cho ông lái nổi bật lên. Sông
Đà càng hung bạo, ông lái đò càng trí dũng, tài hoa. Sông Đà có thơ mộng, hiền hòa với những
vẻ hoang sơ mới thấy ông lái là người yêu thiên nhiên, chan hòa trong cuộc sống, là một người
lao động bình dị như bao con người khác. Từ đó thấy được cách để Nguyễn Tuân tôn vinh vẻ phi
thường của một con người bình thường - một hạt “vàng mười” mà ông đã bỏ công bao ngày để
đi tìm trên mảnh đất Tây Bắc.
- Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Khi khám phá vẻ đẹp đa dạng của sông Hương, cần thấy được các điểm nhìn (thường gọi
là góc nhìn): địa lý, lịch sử, văn hóa. Và ở mỗi góc nhìn, tác giả đều mang vào đó trí tưởng tượng
phong phú của mình. Trường THPT Nguyễn Trung Trực Tổ Ngữ văn
Ở góc nhìn địa lý: sông Hương là cô gái cá tính, chung tình. Lúc ở thượng nguồn, sông
Hương mang trong mình vẻ dữ dội, hoang sơ khiến tác giả hình dung như cô gái Di-gan phóng
khoáng, man dại. Lúc đến đồng bằng, sông Hương dịu dàng, yên ả giống như người gái đẹp ngủ
mơ màng giờ được đánh thức dậy với những phẩm chất nữ tính nhất để bắt đầu bước vào hành
trình đi tìm tình yêu.
Khi sông Hương liên tục đổi dòng, giống như người con gái đang thay đổi mình kiếm tìm
đường về với người tình mong đợi: thành phố Huế. Khi sông Hương phát hiện ra thành phố Huế
của mình, cô gái ấy chợt dâng đầy cảm xúc: tươi vui, yên tâm Khi bắt gặp thành phố Huế, cô
gái sông Hương như bắt gặp người tình của mình rồi đầy thẹn thùng, e lệ. Và rồi, điệu chảy lặng
lờ - điệu slow của sông Hương giống như sự đắm say của đôi lứa trong tình yêu nồng nàn. Khi
sông Hương trôi đi, cái dáng uốn cong ôm lấy thành phố Huế được tác giả hình dung như sự lưu
luyến nghẹn ngào vì phải chia li của lứa đôi.
Ở góc nhìn văn hóa: trong suy tưởng của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương như người
mẹ sản sinh và nuôi dưỡng các giá trị văn hóa cổ truyền của xứ Huế.
Ở góc nhìn lịch sử: sông Hương hóa thân từ vẻ dịu dàng, trầm tư để trở thành chủ nhân,
chứng nhân của một xứ Huế oai hùng từ thời cổ đại, qua trung đại, đến hiện đại.
* Đặc điểm của cái tôi tác giả trong mỗi tác phẩm
Nổi bật lên trong tác phẩm tùy bút chính là tính chủ quan, chất trữ tình sâu đậm của cái tôi
tác giả. Cho nên, sức hấp dẫn của tùy bút còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn của cái tôi ấy
Sở dĩ Nguyễn Tuân tìm đến và thành công với tùy bút là bởi vì nó là thể văn phóng túng,
tự do, đáp ứng được cá tính “ngông” trên trang viết của ông. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cái
phóng túng tự do ấy lại được thể hiện trên văn phong trang nhã. Do đó, hình bóng cái tôi tác giả
luôn hiển hiện trong mỗi tác phẩm.
Người lái đò Sông Đà, lâu nay, người ta chỉ quen thấy một cái tôi tài hoa uyên bác. Nhưng
vấn đề cần bổ sung vào đây chính là cảm hứng ngợi ca đầy say mê của một con người yêu thiết
tha vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người như Nguyễn Tuân - người suốt đời sống trong
hành trình đi tìm cái đẹp!
Ai đã đặt tên cho dòng sông?, ta phải giúp học sinh nhận ra rằng: việc đi tìm cội nguồn của
tên gọi sông Hương chỉ là cái cớ rất nên thơ để men theo đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường mở ra vẻ
đẹp muôn sắc màu của Hương giang, thậm chí nhuốm màu huyền thoại, đồng thời mở ra tâm hồn
mình: một người am hiểu về thiên nhiên, lịch sử xứ Huế và cũng là người yêu tha thiết mảnh đất
cố đô này.
Với hai tác phẩm này, cả hai nhà văn đều gặp nhau trong tình yêu tha thiết và cảm hứng
ngợi ca vẻ đẹp của quê hương, con người xứ sở. Chính cái tôi ấy đã làm gia tăng chất thơ cho
mỗi tác phẩm. Đó là phần miêu tả sông Đà thơ mộng của Nguyễn Tuân và nhất là ở sông Hương
của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Trường THPT Nguyễn Trung Trực Tổ Ngữ văn
4. Luyện tập vận dụng các phương thức biểu đạt, các thao tác lập luận trong làm văn nghị
luận (Tiết 30)
Mục tiêu
Chỉ ra được các phương thức biểu đạt, các thao tác lập luận và giá trị của việc vận dụng
kết hợp các phương thức biểu đạt, các thao tác lập luận trong một bài văn nghị luận.
Cách thực hiện
- Giáo viên: Cung cấp ngữ liệu và yêu cầu thực hiện cho học sinh; tổ chức cho học sinh
báo cáo, thảo luận, kết luận
- Học sinh đọc ngữ liệu và thực hiện yêu cầu; báo cáo, thảo luận.
Đọc ngữ liệu:
“Thạch Lam sinh ngày 7.7.1910, qua đời năm 1942. Sự nghiệp văn học của ông bao gồm
truyện ngắn, truyện dài, truyện thiếu niên và những bài bình luận văn học. In tập truyện ngắn đầu
tay năm 1937, có thể nói, sự nghiệp sáng tác của Thạch Lam chỉ kéo dài khoảng 5-6 năm, song
quãng thời gian ngắn ngủi ấy cũng đủ để cái tên Thạch Lam trở nên vô cùng sâu đậm trong lòng
độc giả.
Đúng vậy, dù là một thành viên của Tự lực văn đoàn và chịu những ảnh hưởng nhất định
của trường phái lãng mạn nhưng Thạch Lam chọn cho mình một lối đi hoàn toàn riêng biệt trong
văn chương. Không chọn phong cách lãng mạn, thoát ly hiện thực như những tác giả trong nhóm
văn Tự lực, cũng không chọn lối đi đầy dữ dội như Ngô Tất Tố hay trào lộng như Vũ Trọng
Phụng, Thạch Lam viết về những điều hết sức bình dị và tinh tế.
Đó là vẻ đẹp của bình dị thôn quê với đường gạch, hàng cây, với tiếng gió xào xạc hay
ngay cả trong ánh đèn của đoàn tàu vụt qua nơi phố huyện nghèo và hơn hết là vẻ đẹp đầy sáng
ngời của tâm hồn con người. Đó là không gian buổi chiều tàn Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều
êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. (Hai đứa
trẻ). Những lời lẽ nhẹ nhàng, thủ thỉ nhưng lại gợi ra biết bao xúc cảm đầy mạnh mẽ. Thiên nhiên
dưới con mắt của Thạch Lam bao giờ cũng là mặt hồ phản chiếu tâm trạng của con người Thế
mà qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng
đang ở giữa mùa đông rét mướt. (Gió lạnh đầu mùa).
Văn Thạch Lam nhẹ nhàng, thủ thỉ nhưng có sức ám ảnh lớn. Là lối truyện tâm tình, không
có cốt truyện, toàn truyện không hề có hành động phát triển xung đột mà chỉ toát lên một tâm
trạng, một không khí nhưng lại rất thực, rất đời. Truyện ngắn Thạch Lam như một tấm gương
sáng mà ai soi vào đó cũng thấy có mình, thấy ưu điểm, nhược điểm để hiểu mình hơn, hiểu
người hơn, để cảm thông hơn và sống đẹp hơn: “ Tôi rùng mình nghĩ đến số phận của anh xe
khốn nạn. Ba đồng bạc phạt! Anh ta sẽ phải vay trả cai xe để nộp phạt; nhưng ba đồng bạc nợ
ấy, bao giờ anh mới trả xong, sau những ngày nhịn đói, bị cai xe hành hạ đánh đập vì thù hằn?
Tôi càng nghĩ đến bao nhiêu càng khinh bỉ tôi bấy nhiêu ” (Một cơn giận). Trường THPT Nguyễn Trung Trực Tổ Ngữ văn
Nguyễn Tuân đã nhận xét về ngôn ngữ văn chương Thạch Lam rất sâu sắc Thạch Lam đã
làm cho tiếng Việt gọn ghẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại và tươi tắn hơn. Thạch Lam có đem sinh
sắc vào tiếng ta. Thạch Lam đã mang tới những đóng góp không nhỏ trong quá trình hiện đại hóa
văn học trên phương diện ngôn ngữ và mang dấu ấn rất riêng của cây bút lãng mạn, giàu xúc cảm
và tài hoa.
Đọc các sáng tác của ông, nhất là truyện ngắn người ta thường cảm thấy bùi ngùi thương
xót trước một cảnh đời lầm than hay bâng khuâng man mác trước trạng thái tâm hồn của ai đó
hình như rất quen thuộc với mình. Ấy là vì những sáng tác của Thạch Lam mang trong mình cả
giá trị hiện thực lẫn sự cảm thông đối với những mảnh đời ông viết. Quả thật khó mà quên được
một mẹ Lê ("Nhà mẹ Lê"), bà mẹ nghèo với mười một đứa con bữa rau bữa cháo đắp đổi qua
ngày. Sống chen chúc trong căn lều lụp xụp tồi tàn, nhưng tình thương thuần phác và tấm lòng
của người mẹ khổ ấy đã nâng đỡ bao bọc cho những đứa con. Cũng chính vậy, khi mẹ Lê bị chó
dữ nhà giàu cắn chết trong ngày đói thì túp lều chật hẹp tồi tàn của mẹ trở nên hư vô, trống trải
vô chừng. Trong văn của Thạch Lam, những con người dù bị chà đạp vẫn cố gắng vươn tới vẻ
đẹp thanh cao, những con người dù khốn khó vẫn tự đấu tranh để vươn tới cái đẹp trong cuộc
sống.
Nghệ thuật chân chính phải là nghệ thuật vị nhân sinh, vì con người và cuộc đời. Nhà văn
chân chính phải biết lấy chất liệu từ cuộc sống mà dệt nên những trang văn để đời. Thạch Lam
không chỉ để nắng trong vườn, mà còn vẽ nắng thật đẹp trong lòng mỗi chúng ta ”
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Văn bản trên viết về chủ đề gì?
Câu 2. Tìm những luận điểm chính triển khai chủ đề trong văn bản trên.
Câu 3. Văn bản trên sử dụng những phương thức biểu đạt nào? Phương thức nào là phương
thức chính?
Câu 4. Nhận xét cách kết hợp những phương thức biểu đạt ấy trong văn bản trên.
Câu 5. Văn bản trên sử dụng những thao tác lập luận nào? Thao tác lập luận nào là thao
tác chính?
Câu 6. Nhận xét cách kết hợp những thao tác lập luận ấy trong văn bản trên.
5. Thực hành nói và viết (Tiết 31)
Mục tiêu
- Trên cơ sở hiểu được đặc trưng của thể loại kí, học sinh vận dụng tạo lập một văn bản
bằng ngôn ngữ nói
- Vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt, các thao tác lập luận để viết bài văn nghị
luận về thể loại kí
Cách thực hiện
- Giáo viên cho bài tập, có gợi ý cụ thể; tổ chức cho học sinh báo cáo, thảo luận, kết luận
- Học sinh thực hiện theo yêu cầu của giáo viênTài liệu đính kèm: