Giáo án Ngữ văn 12: Đất nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) - Nguyễn Khoa Điềm

Giáo án Ngữ văn 12: Đất nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) - Nguyễn Khoa Điềm

a - giới thiệu chung

i - tác giả

- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ cứu nước (Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh,.).

- Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm:

+ Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư và cảm hứng lắng đọng, thực hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu.

+ Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự đằm thắm, đôn hậu của con người xứ Huế với sự sắc sảo, trí tuệ của một người có trình độ văn hóa cao.

 

doc 8 trang Người đăng hien301 Lượt xem 1484Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ văn 12: Đất nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) - Nguyễn Khoa Điềm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
®Êt n­íc
(Trích trường ca Mặt đường khát vọng)
- Nguyễn Khoa Điềm -
yªu cÇu cÇn ®¹t
a - giíi thiÖu chung
i - t¸c gi¶
- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ cứu nước (Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh,...).
- Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm:
+ Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư và cảm hứng lắng đọng, thực hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu.
+ Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự đằm thắm, đôn hậu của con người xứ Huế với sự sắc sảo, trí tuệ của một người có trình độ văn hóa cao. 
ii - t¸c phÈm
1. Xuất xứ
Đoạn trích nằm ở phần đầu của chương V - chương trụ cột của trường ca Mặt đường khát vọng, được hoàn thành năm 1971 và in lần đầu năm 1974.
2. Hoàn cảnh ra đời
- Trường ca Mặt đường khát vọng được viết trong những ngày tháng nóng bỏng của chiến trường Bình - Trị - Thiên. Năm 1971 là năm mà cuộc chiến tranh chống Mĩ ở miền Nam đang vào thời kì ác liệt. 
- Tác giả viết trường ca này nhằm thức tỉnh thế hệ trẻ thành thị miền Nam ở vùng tạm chiếm: nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, ý thức được sứ mệnh của mình đối với dân tộc trong cuộc chiến tranh thiêng liêng bảo vệ đất nước. 
→ Nguyễn Khoa Điềm đã thấm nhuần đất nước là máu xương của mình, đã gắn bó và san sẻ, đã đi trả thù mà không sợ dài lâu,... Vì vậy, tư tưởng xuyên suốt trong chương V của trường ca là: Đất Nước của Nhân dân.
b - ®äc - hiÓu
i - ®äc vµ t×m hiÓu chung
1. Bố cục
Đoạn trích có thể chia làm 2 phần:
- Từ đầu → Làm nên Đất nước muôn đời: những cảm nhận chung về đất nước của tác giả
- Còn lại: tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.
II - ®äc - hiÓu v¨n b¶n
1. Những cảm nhận chung về đất nước
a) Đất nước bắt nguồn từ những gì gần gũi, giản dị, thiêng liêng trong đời sống tâm hồn của mỗi con người
- Đoạn thơ mở đầu với lời thơ rất giản dị tự nhiên, âm hưởng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, đưa người đọc vào cội nguồn của đất nước. 
- Đất nước bắt nguồn từ những câu truyện, truyền thuyết, cổ tích rất gần gũi và thân quen: câu chuyện Trầu cau với tình người nồng hậu thủy chung, truyền thuyết Thánh Gióng như khúc anh hùng ca biểu tượng cho sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam thuở bình minh dựng nước và giữ nước,... Đất nước không phải là hình người khổng lồ xa lạ hay một khái niệm trừu tượng chung chung, mà đất nước là những gì giản dị, gần gũi, thân thương trong cuộc sống của mỗi con người. Nó nhắc chúng ta nhớ về truyền thống đạo lí nghĩa tình và lòng yêu nước của người Việt Nam. 
- Đất nước gắn với những nếp sống văn hóa của người Việt Nam (tập tục) như bới tóc sau đầu, ăn trầu, đặt tên người, tên vật,... rồi đến cả tình yêu của cha mẹ: Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Đây là những phong tục gắn bó rất gần gũi thân thương với tâm hồn của mỗi người Việt Nam. Và từ những phong tục tập quán xa xưa như không có tên tuổi ấy đã làm nên một khuôn mặt đất nước, đã tạo ra được sự bền vững sâu xa. Bởi nó được hình thành và tồn tại trong sự tiếp nối thiêng liêng của nhiều thế hệ. 
b) Đất nước gắn với những kỉ niệm riêng tư của mỗi con người
Tác giả đã lí giải, đưa ra một định nghĩa về đất nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước. Tác giả đã sử dụng lối chiết tự thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước: Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng, dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên, đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, đất nước còn là người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu.
→ Tất cả đều bình dị, cụ thể, gần gũi đáng yêu với anh, với em, với mỗi chàng trai cô gái. Nó thấm vào hồn của mỗi con người Việt Nam.
c) Đất nước trên bình diện địa lí, lịch sử 
- Bình diện địa lí - đất nước gắn với núi sông rừng bể bao la:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
[...]
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc và hình ảnh con cá ngư ông móng nước biển khơi đều là những hình ảnh mượn từ dân ca Huế, quê hương của nhà thơ. Đất nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi lúc cũng rộng lớn, tráng lệ và kì vĩ, nhất là đối với những người đi xa.
→ Đất nước hiện lên qua một không gian rộng lớn mênh mông, thời gian vô tận, kết hợp với hình ảnh thơ đậm chất dân gian, làm cho hình ảnh thơ khi nói về bình diện địa lí không xa lạ, thô cứng mà gần gũi thiêng liêng, để từ đó tác giả tiếp tục triển khai mạch cảm xúc. 
- Đất nước còn gắn với bình diện lịch sử của dân tộc:
+ Tác giả nói đến nguồn gốc, cội nguồn của đất nước (từ truyền thuyết con Rồng cháu Tiên) nhằm nhắc nhở người Việt Nam về nguồn gốc cao quý của mình, đồng thời khơi gợi sự đoàn kết nhất trí, yêu thương, một lòng khi mà con người cùng chung một cội nguồn thì phải biết yêu thương nhau. 
→ Lời thơ trở nên thiêng liêng khi lí giải về nguồn gốc tổ tiên, cội nguồn dân tộc. Đất nước ấy với những phong tục tập quán, những truyền thống văn hóa vững bền, tạo nên mạch ngầm chảy từ quá khứ nối liền với hiện tại và tương lai. 
+ Đất nước là sự kế thừa và phát triển của lớp lớp con cháu người Việt:
▪ Đất nước là sự kế tụng không ngừng của các thế hệ người Việt Nam. Lời thơ nhắc tới quá khứ, hiện tại và tương lai (đã khuất, bây giờ, mai sau):
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ...
...Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Đây là sự kế tụng không ngừng của lớp lớp con người Việt Nam. Yêu nước, con cháu người Việt lớp lớp nối bước cha ông, gánh vác trên vai trách nhiệm xây dựng và bảo vệ đất nước. 
▪ Đạo lí dân tộc luôn được giữ gìn và phát huy - đó là đạo lí hướng về cội nguồn của người Việt Nam:
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Con cháu người Việt mãi mãi ghi nhớ công ơn của các vua Hùng. Nhớ ngày giỗ Tổ, một nét đẹp tâm hồn người Việt Nam: tình nghĩa cao dày thấm đượm tình yêu nước. Câu thơ gợi cảm xúc trang trọng thiêng liêng khi đưa ta trở về với cội nguồn cha ông. 
d) Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với đất nước
Trên cơ sở thể hiện quan niệm về đất nước, nhà thơ đã phát triển cảm xúc tình cảm của mình về đất nước ở bình diện cao hơn, đó là về mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với đất nước.
- Đất nước là một phần không thể thiếu trong anh, trong em và trong tất cả mọi người. Từ đó, tác giả phát hiện ra một điều lí thú:
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Khi hai đứa cầm tay thì chúng ta đã có một ý thức về đoàn kết, khi chúng ta cầm tay mọi người có nghĩa là ta biết yêu thương nhau, biết sống đoàn kết với nhau để tạo nên một gương mặt đất nước vẹn tròn to lớn, một đất nước tình nghĩa thủy chung. Đất nước ấy sẽ trưởng thành, lớn mạnh không ngừng. 
→ Đây là một quan niệm về đất nước thật là gần gũi và thân thiết. Với cách nhìn mới mẻ ấy, nhà thơ đã giúp chúng ta thấy được sự gắn bó máu thịt với số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, của đất nước.
- Tiếp theo, nhà thơ xác định ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong mỗi con người. Lời thơ trở thành một lời tâm sự da diết tâm tình, một loạt câu thơ có tính chất như một mệnh đề với những cụm từ phải biết, nhưng lại giống như một lời tự dặn mình một cách chân thành về trách nhiệm của mỗi cá nhân trong cộng đồng chung của dân tộc, của đất nước. 
Tóm lại, lời thơ đậm chất dân gian, giọng thơ khi thì tự nhiên sâu lắng, khi thì đậm chất triết luận, tác giả đã thể hiện những cảm nhận sâu sắc của mình về đất nước trên nhiều bình diện khác nhau. Từ đó, đoạn thơ giúp người đọc thêm yêu quý, tự hào về nguồn gốc của dân tộc, của đất nước. 
2. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”
a) Đất nước do nhân dân sáng tạo nên
- Đất nước là những địa danh, những danh lam thắng cảnh kì thú: núi Bút non Nghiên, hòn Trống Mái, núi Vọng Phu, vịnh Hạ Long, sông Cửu Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm, Đó là những danh lam thắng cảnh tươi đẹp, mỗi địa danh không phải là một cái tên vô nghĩa mà sau mỗi tên đất, tên núi, tên sông là mỗi cuộc đời, gắn với những kì tích, huyền thoại. 
→ Tất cả những dáng hình núi sông trên đất nước ta đều do nhân dân làm ra. Tác giả đã thể hiện tư tưởng này qua động từ góp. Mọi người đều góp phần xây dựng đất nước. Chủ thể của động từ là: những người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, gót ngựa Thánh Gióng, người học trò nghèo và cả những người dân thường không tên tuổi,... Chính những con người này đã làm ra một đất nước nhân hậu, thủy chung, anh hùng bất khuất và giàu truyền thống hiếu học. 
- Mỗi địa danh ấy là cuộc đời, là tâm hồn nhân dân hóa thân mà thành. Chính vì vậy, nhân dân chính là những người thổi hồn mình vào đất nước, vào những địa danh, những danh lam thắng cảnh kì thú. Thế nên đất nước chứa đựng linh hồn của nhân dân, trong đất nước đã in bóng hình của nhân dân và trong nhân dân có bóng hình đất nước. 
- Địa danh cũng chính là dấu ấn sinh tồn của dân tộc. Lần theo những địa danh, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo dựng lại được cả diện mạo non sông đất nước:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
Một đất nước chỉ có lãnh thổ không thôi thì chưa đủ, nó còn phải có lịch sử. Lịch sử của một dân tộc chính là sự sống của dân tộc ấy trong chiều dài thời gian. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về bốn nghìn năm lịch sử. 
b) Đất nước do nhân dân chiến đấu và bảo vệ 
- Những con người làm nên đất nước chính là những con người góp phần bảo vệ đất nước. Họ là những con người bình dị vô danh ; họ là những con người lao động cần cù chăm chỉ nhưng khi đất nước có giặc ngoại xâm thì chính họ đã trở thành những anh hùng cứu nước: 
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta...
....Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
+ Khi có giặc người con trai ra trận - Người con gái trở về nuôi cái cùng con: cùng nhau chung sức, chung lòng để đánh giặc cứu nước.
+ Khi cần thì giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh.
→ Nhà thơ đã khẳng định truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống được phát huy từ đời này sang đời khác.
- Khi nhìn vào bốn nghìn năm Đất Nước, khi suy ngẫm về sự hình thành đất nước trong chiều dài lịch sử, dường như nhà thơ cũng chẳng biết đất nước có tự bao giờ. Nhưng nhà thơ cảm nhận cụ thể đất nước không chỉ có những triều đại nổi tiếng, những anh hùng có tên được lưu truyền sử sách, mà làm nên đất nước muôn đời ấy chính là do những con người bình dị, những người dân vô danh. Họ có thể là những người vợ nhớ chồng, những cặp vợ chồng yêu nhau, những cậu học trò nghèo, ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm,... Họ là những người con gái, con trai, bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi, sống và chết giản dị và bình tâm, không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ đã làm ra đất nước. 
c) Đất nước do nhân dân giữ gìn và lưu truyền cho các thế hệ người Việt những giá trị văn hóa vật chất cũng như tinh thần to lớn
- Trong suốt bốn nghìn năm lịch sử, không ai nhớ mặt, nhớ tên những người anh hùng vô danh. Nhưng chính họ đã làm nên, lưu giữ và truyền lại cho chúng ta những gì họ có:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập, be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Bốn nghìn lớp người ấy đã làm nên tất cả: từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa tạo nên bước tiến của loài người, đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán, giọng nói cha ông, tên làng, tên xã. Họ đã truyền lại tất cả, để đất nước này mãi là đất nước của nhân dân. Đất nước và nhân dân hòa vào nhau tạo nên một đất nước vừa thực lại vừa linh thiêng. Một đất nước địa linh nhân kiệt. Đây là một tư tưởng hết sức mới mẻ, khẳng định vai trò của nhân dân với đất nước. Biết bao thế hệ người dân ta từ già trẻ trai gái đã ngã xuống, máu của họ đã tạo thành sông suối, xương của họ tạo nên dáng núi và tâm hồn họ là hồn thiêng sống núi. Họ là người làm ra đất nước.
- Đây là một cuộc chạy đua tiếp sức không biết mệt mỏi của bao thế hệ người Việt Nam. Cái mà họ truyền cho nhau, tiếp sức cho nhau đó là ngọn đuốc sự sống của dân tộc Việt Nam (ngọn lửa: chỉ sức sống bền bỉ, dẻo dai của dân tộc ta). Mỗi thế hệ chạy một quãng đường và trao lại cho thế hệ kế tiếp. Cứ như thế, đất nước được hình thành và phát triển bởi vô số những con người vô danh.
d) Đất nước của nhân dân cũng chính là đất nước của ca dao thần thoại
Mạch cảm xúc, suy tưởng của đoạn thơ cứ tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
+ Tác giả nói Đất Nước của ca dao thần thoại cũng chính là nói đến Đất Nước của nhân dân, như để nhấn mạnh, khắc sâu nguồn gốc nhân dân, cội nguồn của đất nước. Nhân dân - những con người giản dị, vô danh cũng chính là những người sáng tạo ra các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước. Một trong những giá trị văn hóa đặc sắc, kết tinh tư tưởng và tâm hồn của nhân dân, dân tộc chính là văn hóa, văn học dân gian. 
+ Tác giả đã khái quát: Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại. Câu thơ với hai vế song song, đồng đẳng là một cách định nghĩa về đất nước thật giản dị mà độc đáo: đất nước được tạo nên bởi sức mạnh và tình nghĩa của nhân dân, đất nước là của nhân dân, muốn hiểu đất nước phải hiểu nhân dân và vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của nhân dân hơn đâu hết có thể tìm thấy trong văn hóa tinh thần của nhân dân: đó là văn hóa dân gian, là truyện thần thoại, truyện cổ tích, là dân ca, ca dao,... 
→ Ở đây tác giả đã dùng đất nước dân gian từ xa xưa mà không dùng một đất nước hiện đại của ngày hôm nay. Bởi vì, dân gian chính là dân tộc, lại là cái phần tiêu biểu, đậm đà nhất, dễ cảm thấy và cũng rất dễ nhận ra nhất của dân tộc, cũng là của đất nước mình. Hình ảnh một đất nước dân gian thơ mộng, trữ tình từ xa xưa vọng về sẽ trở nên quen thuộc, gần gũi với mọi người nên dễ cảm, dễ hiểu, dễ nhận ra tư tưởng Đất Nước của Nhân dân. 
3. Nghệ thuật đặc sắc
- Tác giả đã cảm nhận về đất nước trong một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện. Đoạn trích như một tùy bút thơ: vừa theo mạch cảm xúc thơ, tác giả vừa huy động vào thơ cả một kho tri thức phong phú mang tính tổng hợp về văn hóa dân tộc (trong đó có văn học dân gian), về phong tục tập quán, địa lí, lịch sử,... 
- Sử dụng nhuần nhị và sáng tạo nhiều chất liệu văn học và văn hóa dân gian vào câu thơ hiện đại tạo nên màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ cho đoạn thơ: 
+ Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng và sáng tạo: có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt,... ; có ca dao, dân ca, tục ngữ,... ; có truyền thuyết, các truyện cổ tích xa xưa,... Cách vận dụng của tác giả thường là chỉ gợi ra bằng một vài chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết, cổ tích. 
+ Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, thơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích này. 
+ Ngoài chất dân gian thì đoạn trích còn có chất hiện đại. Điều đó được thể hiện ở các yếu tố suy tưởng, triết lí và ở thể thơ tự do với những câu thơ co duỗi linh hoạt, thay đổi nhịp điệu và rất ít dựa vào vần để liên kết. 
- Tác giả tạo ra một không khí, giọng điệu, một không gian nghệ thuật riêng đưa ta vào thế giới gần gũi, mĩ lệ và bay bổng của ca dao, truyền thuyết, của văn hóa dân gian nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và tư duy hiện đại với hình thức của thơ tự do. 
4. Chất chính luận và chất trữ tình trong đoạn trích
- Chất chính luận nằm trong ý đồ tư tưởng của tác giả: thức tỉnh tinh thần dân tộc của thế hệ trẻ thành thị miền Nam, để dứt khoát trong sự lựa chọn đứng về phía nhân dân và cách mạng. Tính chính luận đã chi phối kết cấu: đoạn trích được xây dựng theo cách lập luận, như là để trả lời cho câu hỏi: Đất nước là gì ? (phần một của đoạn trích). 
- Chất trữ tình không chỉ được biểu hiện ở những câu thơ bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của chủ thể mà còn thấm vào trong cái nhìn, trong thái độ trân trọng, yêu quý với mỗi hình ảnh, chi tiết về đất nước gắn liền với nhân dân được miêu tả, gợi ra trong đoạn trích. 
iii - tæng kÕt
- Đoạn trích thể hiện cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện như lịch sử, địa lí, văn hóa,...
- Đóng góp mới mẻ của nhà thơ là cách nhìn đất nước trong sự kết tinh và hội tụ của nó trên nhiều bình diện: đó là Đất Nước của Nhân dân, do nhân dân làm ra ; đất nước trường tồn, bất diệt cùng nhân dân. 

Tài liệu đính kèm:

  • docDat nuoc nguyen khoa diem.doc