Giáo án Ngữ văn 12 bài: Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài

Giáo án Ngữ văn 12 bài: Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài

VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI

I. GIỚI THIỆU:

1. Tác giả:

a. Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 10-08-1920 ở làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội).

b. Ông nhanh chóng được người đọc chú ý, đặc biệt là truyện Dế mèn phiêu lưu kí.

c. 1960, gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.

d. 1996, được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).

e. Tác phẩm tiêu biểu: Dế Mèn phiêu lưu kí (1941), O chuột (1942), Nhà nghèo (1944), Truyện Tây Bắc (1953)

 

doc 8 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1673Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ văn 12 bài: Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI
I. GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
a. Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 10-08-1920 ở làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội).
b. Ông nhanh chóng được người đọc chú ý, đặc biệt là truyện Dế mèn phiêu lưu kí.
c. 1960, gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.
d. 1996, được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
e. Tác phẩm tiêu biểu: Dế Mèn phiêu lưu kí (1941), O chuột (1942), Nhà nghèo (1944), Truyện Tây Bắc (1953)
2. Hoàn cảnh sáng tác:
Trước CM Tháng Tám Tô Hoài nổi tiếng với “Dế mèn ..”. Sau Cách mạng ông tiếp tục khẳng định tên tuổi mình qua tập “Truyện tây bắc”. Vợ chồng A Phủ là truyện thành công nhất trong ba truyện mà Tô Hoài viết về tây bắc. Tác phẩm mang đậm giá trị hiện thực - tố cáo và nhân đạo, dc thể hiên qua chất thơ, chất trữ tình sở trường của tô Hoài. 
Tác phẩm được in trong tập “truyện Tây Bắc” xuất bản 1953 (đạt giải Nhất giải thưởng văn nghệ 1954-1955)
Tác phẩm ra đời khi Tô Hoài tham gia giải phóng Tây Bắc 1952. Vốn sống từ 8 tháng đi thực tế cùng tình yêu đất nước và con người Tây Bắc đã truyền cảm hứng cho Tô Hoài.
3. Tóm tắt truyện:
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái ngừơi Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ đẹp ở Hồng Ngài, bị bắt về làm vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra, để trừ món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc. Mị định ăn lá ngón để tự tử nhưng vì thương cha nên không thể chết mà phải đành sống tiếp chuỗi ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khốn khổ hơn trâu ngựa. Mùa xuân đến, nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, Mị nhớ lại hồi mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A Sử bắt gặp và troi đứng trong buồng tối. Còn A Phủ là chàng trai nghèo, mồ côi, khỏe mạnh, lao động giỏi. Vì dám đánh lại A Sử, A Phủ bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ, rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Do có một lần A Phủ đi chăn bò để cọp vồ mất một con bò nên bi thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu nhìn cảnh ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng cảnh ngộ trỗi dậy, Mị cắt dây, cởi trói cho A Phủ, rồi bỏ trốn theo A Phủ. Họ cùng nhau trốn lên Phiềng Sa cùng nhau tạo dựng cuộc sống. Ở đây họ bị bọn Tây càn quét, được cán bộ A Châu giác ngộ, A Phủ trở thành đội trưởng du kích. Mị cùng chồng và dân làng chuẩn bị chiến đấu đón bộ đội giải phóng quê hương.
- “Vợ chồng A Phủ “ gồm hai phần. Đoạn trích này thuộc phần một, lấy bối cảnh ở Hồng Ngài.
II. Phân tích tác phẩm:
- Mị - nhân vật trung tâm của câu chuyện “Vợ chồng A Phủ”. Mị là cô gái trẻ đẹp, con nhà lao động, có tấm lòng nhân hậu. Thế nhưng, số phận run rủi, nàng phải vào nhà Thống li PáTra làm vợ để trả món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ nàng. Lẽ ra là cuộc đời sẽ tốt đẹp nhưng số phận không an bài như thế, nơi đây Mị bước sang một trang đời đầy tăm tối, tất cả như xô dạt về hướng lụi tàn, không gì cứu vãn được. . Mị . Mị trở nên câm nín vô hồn , vô cảm. Mị khóa chặt lòng mình: không giao tiếp, không trông chờ, không hy vọng, không phản ứng, Mị “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Ý nghĩa của cuộc sống chỉ còn lại đơn thuần là những ngày dài lê thê chưa chết. Cứ thế Mị giam cầm mình trong căn buồng tăm tối “kìn mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay ..” và chi tiết ấy lặp lại đến mấy lần trong tác phẩm. Để rồi từ ô cửa ấy, Mị nhìn ra bên ngoài và thấy cái màu trăng trắng không biết là sương hay nắng, Mị mất cả ý niệm về không gian và thời gian, Mị không phân biệt được thời gian sáng và chiều, không biết mùa nào đã về, con chim nào đã bay qua dưới cửa sổ. Mị bị cuốn vào cái vòng xoáy công việc giặt đay, xe đay, bưng ngô và sau tết “lên núi hái thuốc phiện  đến mùa thì lên nương bẻ bắp Bao giờ cũng thế, suốt năm như thế”. Ý thức làm người của Mị dần dần bị tê liệt. Độc ác hơn, gia cấp phong kiến ấy còn đánh đập, chà đạp lên nhân phẩm của Mị. Chúng dùng bóng ma thần quyền nhằm hù dọa, ức hiếp triệt tiêu cả niềm tin và sự phản kháng của Mị. Phần “Người” trong Mị cứ chết dần mòn theo ngày tháng, nhu cầu giao lưu với bên ngoài dường như bế tắc. Và Mị đã chọn cái chết như một con người còn hơn là sống như trâu ngựa. Nàng định dùng “nắm lá ngón” để kết liễu kiếp đọa đày của mình. Thế nhưng, vì sợ liên lụy đến cha mẹ. nàng “ném nắm lá ngón xuống đất” để tiếp tục sống dù trong đọa đày tủi nhục. Mị giống như Thuý Kiều hai trăm năm trước, lựa chọn của Mị thực chất là bán mình cứu cha. Đó là sự phản kháng dù tiêu cực nhưng hết sức quyết liệt: lấy cái chết để phủ nhận cuộc sống làm dâu gạt nợ.Và rồi cơn gío lành đã đến và ngọn lửa ngọn lửa ham sống đã bùng lên lần thứ nhất trong câu chuyện này từ một “đêm tình mùa xuân”. Đêm tình mùa xuân ngân lên như một niềm thơ từ tiếng sáo dìu dặt gọi bạn tình nghe “thiết tha bồi hồi”, làm xao động trái tim và cõi lòng Mị. Vâng ! Mùa xuân tình yêu đã đến. Tác động của nắng xuân, màu sắc biến ảo của hoa anh túc trên nương, của ánh trăng đêm hò hẹn, của tiếng khèn, tiếng sáo miên man gọi bạn tình, như nguồn nhiệt lượng thiêng liêng dội vào khoảng sâu thẳm tâm hồn Mị, sưởi ấm và làm tan chảy tảng băng lạnh lẽo trong lòng Mị. Cõi lòng Mị ấm dần lên, băng giá tan chảy và Mị hồi sinh. Những hạt mầm đầu tiên của cảm xúc bắt đầu nảy nở: “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”. Nhận thức và nhu cầu được sống chảy lai láng trong tâm hồn Mị và rồi vẻ đẹp sặc sỡ của “những chiếc váy hoa phơi trên mõm đá xoè ra như cánh bướm” trong các làng Mèo đỏ lọt vào mắt nàng. Ấn tượng về chiếc váy hoa đã đánh thức như cầu làm đẹp của người thiếu phụ có gương mặt buồn này. “Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Đó là tiếng hát vang lên từ trong đáy sâu tâm hồn Mị - tiếng hát của thanh xuân mà không có một thế lực cường quyền, thần quyền nào có thể dập tắt được. Tiếng hát là sự kết tinh của nhhững khát vọng cao đẹp nhất, có lẽ nhiều khi nó còn đẹp hơn chính cả con người? Nhu cầu giao tiếp, giao cảm và nhu cầu sống trở về với Mị. Thực tại đắng cay như địa ngục trần gian nơi ô cửa sổ nhỏ trong nhà Thống lý Pá Tra với người chồng tồi tệ là A Sử; còn một thực tại khác êm ả như thiên đường tuổi trẻ dưới nắng xuân ngoài nương, dưới đêm trăng hò hẹn, dìu dặt, miên man trong tiếng sáo gọi bạn tình làm náo nức trái tim Mị. Quá khứ và thực tại đan chéo trong lòng, khiến nàng xúc động mạnh khiến nàng có ý tưởng kỳ lạ “Mị lén lấy hũ rượu, uống ừng ực từng bát”. thế nhưng có lẽ không phải Mị đang uống rượu, mà đang uống những đắng cay của đời mình. Quá khứ êm đềm trỗi dậy như dòng suối miên man chảy vào miền ký ức ngọt ngào của thời thanh xuân” Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Tín hiệu cuộc sống, niềm yêu đời, say đời trở lại đã đưa Mị tìm lại được ý niệm về thời gian, Mị sống với thời gian quá khứ và từ đó nàng nhận ra thới gian, không gian thực tại. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Thế đấy, ngay lúc thèm sống nhất, Mị lại muốn chết ngay. Mị chọn khoảnh khắc hạnh phúc nhất để chết, vì chết lúc ấy người ta dễ mang theo hạnh phúc và dễ bỏ khổ đau lại phía sau. Nhưng “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ ngoài đường” đã thôi thúc Mị “đến góc nhà, xắn một miếng mỡ. bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Người đọc đến chi tiết này đều xúc động vì căn buồng âm u, tăm tối lạnh lẽo bao nhiêu năm tháng giam hãm đời Mị bỗng chốc bừng sáng ánh đèn. Đóm sáng ấy thật ra là ánh lửa ấm áp được thắp lên từ “đêm tình mùa xuân”, được thắp lên từ cõi lòng tiềm tàng sức sống mãnh liệt của Mị. Hành động này thôi thúc hành động khác và Mị quyết định đi theo tiếng gọi của lòng mình: “Mị quấn lại tóc, với lấy cái váy hoa sửa soạn đi chơi tết”. Có thể nói hành động “sửa soạn” này như là một cuộc sửa soạn vượt ngục của một tù nhân không cam số kiếp tù đày. Thế nhưng ngọn lửa ham sống của Mị đã bị A Sử dập tắt một cách tàn bạo, Hắn thản nhiên lầm lì lấy dây, lấy thắt lưng của hắn và cả tóc Mị để trói Mị lại. Có lẽ A Sử đã hình dung được trong cái hành động muốn đi du xuân của Mị là cả một sự thách thức ghê gớm, môt sự bùng lên, một sự nổi loạn chống lại cái luật lệ hà khắc của gia đình hắn nói riêng và cả cái xã hội phong kiến miền cao nói chung. Mị đang bị trói và không hề phản ứng. Tô Hoài thật tinh tế và sâu sắc trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Vì lúc này, nhân vật Mị đang ngây ngất trong thiện đường tuổi trẻ của dư âm đêm tình xuân. Bởi thế sợi dây trói tàn khốc của cuộc đời thực, chưa thể làm kinh động giấc mơ êm đềm của kẻ mộng du tội nghiệp. Đến khi vùng bước đi, Mị mới cảm nhận sự đau nhức và Mị mới bị ném trả lại với sự thực đắng cay, để rồi sáng mai Mị lại trở về với kiếp con rùa lầm lũi trong xó cửa nhà Thống lí. Đó là sự tàn bạo của xã hội phong kiến vùng cao trước Cách mạng. Cho đến một ngày A Phủ xuất hiện trước mặt cũng với thân phận tôi mọi, A Phủ vì đánh lại con quan nên làng phạt vạ, số phận lại vào nhà Thống lí Pá Tra và thân phận không hơn gì Mị. A Phủ để hổ vồ mất con bò và hậu quả hình phạt là bị trói đứng vào cây cột suốt mấy đêm liền, A Phủ xuất hiện trước mặt Mị với hình ảnh như thế. Đồng cảnh ngộ, cũng là người đi ở gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra, A Phủ bị trói mấy đêm rồi, nhưng đêm nào cũng vậy, Mị đốt lửa sưởi, nhìn thấy A Phủ mà vẫn thản nhiên vô cảm: “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi, Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, Mị chỉ biết còn ở với ngọn lửa”. Tâm hồn cô khép kín, dường như sức sống cứ mòn dần, cạn dần, nén lại và khô kiệt mất. Mị nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ: “1 dòng nước mắt lấp lánh bò xuống 2 hõm má đã xám đen lại”. Chính dòng nước mắt ấy đã làm rung chuyển cõi lòng tưởng như đã đóng băng từ lâu của Mị chợt bùng lên, vỡ ra. Mị nhớ lại và thương cho mình “ Mị cũng phải đứng thế kia, nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi đc”. Và ý thức phản kháng trong Mị trỗi dậy, vượt qua nỗi sợ hãi. Nàng muốn A Phủ phải được sống. Còn Mị nàng chấp nhận ở lại mà chết. Nỗi thương người dường như lớn hơn nỗi thương thân: “ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn bíêt đợi ngày mà rũ sương ở đây thôi  Người kia việc gì phải chết thế”. Thế rồi, Mị rón rén bước lại cắt dây trói cho A Phủ, hàng động ấy đã trở nên cái mốc quan trọng trong cuộc đời A Phủ và cũng chính cho Mị, “đi ngay ..” Chỉ hai tiếng khô khốc lạnh lùng ấy đã mở ra một chân trời rộng lớn cho hai người. :A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”. Lúc này, giữa ranh giới cái chết và sự sống, tự do và nô lệ, Mị cũng vụt chạy hổn hển gọi: “A Phủ cho tôi đi ..” Một tình yêu nảy nở từ sự hy sinh và một tình yêu đáp lại từ sự đồng điệu của tâm hồn, của khát vọng sống. Một cuộc giải phóng đời mình tuy là tự phát nhưng thật sự đã diễn ra. A Phủ chợt hiểu: “Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình”. Và khúc hồi thanh của tình yêu vang lên: “Đi với tôi”, có thể nói Mị đã giải thoát cho A Phủ và tự giải phóng chính mình. Đó là sự vượt ngục tất yếu để tìm đến tự do, cũng chính là nét độc đáo của ngòi bút Tô Hoài: ngòi bút của chủ nghĩa nhân đạo, từ Mị ta đồng cảm, xót thương cho thân phận đau khổ của người phụ nữ nghèo miền núi, ta tin vào sức phản kháng, vào khả năng tự giải phóng để được tự do và hạnh phúc của họ. Mị có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức sống đó được bộc lộ ngày một mãnh mẽ và có ý nghĩa tích cực hơn. Ban đầu Mị định dùng lá ngón tự tử- sức phản kháng dù tiêu cực nhưng mạnh mẽ, lần thứ hai khi xuân về, nghe tiếng sáo vọng, Mị muốn đi chơi xuân- hành động phản kháng theo tiếng gọi của hạnh phúc. Và lần cắt dây trói, đi theo A Phủ là đỉnh điểm của sức phản kháng trong Mị, cô vượt qua cả nỗi sợ hãi vốn tồn tại trong mình từ rất lâu để tìm đến tự do.
III. Tống kết:
1.. Giá trị hiện thực:
- Miêu tả chân thực số phận nô lệ của đồng bào Tây Bắc duới ách thống trị của bọn phong kiến và phơi bày cản chất tàn bạo của bọn chúng.
- Diễn tả sinh động quá trình thức tỉnh, giác ngộ Cách mạng của thế hệ thanh niên dân tộc Mèo.
2. Giá trị nhân đạo: 
Từ các nội dung hiện thực trên , truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ mang giá trị nhân đạo lớn lao : 
- Lòng yêu thương , niềm đồng cảm sâu sắc đối với thân phận đau khổ của người lao độngt nghèo miền núi . 
- Thái độ căm thù mãng liệt các thế lực tàn bạo , chà đạp lên quyền sống con người .
- Niềm tin vào sức sống mãng liệt và khả năng Cách mạng của nhân dân Tây Bắc . 
3.Giá trị nghệ thuật : 
a. Nghệ thuật kể chuyện , dựng cảnh tạo không khí , các chi tiết được chọn công phu đan cài nhau một cách tự nhiên . 
b. Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc : 
- Cảnh thiên nhiên thơ mộng đưộc miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ và chất tạo hình ( cảnh mùa xuân về trên miền núi Hồng Ngài ) 
- Cảnh miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng rất chân thật , sinh động , vận dụng sáng tạo lối nói miền núi để miêu tả rất hồn nhiên , giàu hình ảnh ( Cảnh đêm tình mùa xuân , cảnh xử kiện , cảnh cướp vợ cúng trình ma ) 
c. Nghệ thuật miêu tả tâm lý và phát triển tính cách nhân vật sinh động .
- Mị : Tính cách tuy phát triển theo qui luật nhưng vẫn đầy bất ngờ . 
+ Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư , nhiều khi mới là nhiều ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật hiện lên chân thật . 
+ Giọng kể nhà văn có lúc hòa vào dòng tâm tư nhân vật đã vẽ nên đủ lọai cung bậc tình cảm của Mị : lúc tự tin , lúc ai oán , lúc giận dỗi , lúc uất ức . lúc quả quyết . 
- A Phủ : gan góc , bộc trực táo bạo được nhà văn thể hiện bằng hành động , công việc và những lời thoại giản đơn .
4. Chủ đề:
- phản ánh số phận nô lệ của người dân miền núi Tây Bắc dưới chế độ thực dân phong kiến và ý thức đòi quyền sống, khát vọng hạnh phúc của những người nông dân nghèo vùng cao trước CMTT.

Tài liệu đính kèm:

  • docVO CHONG A PHU TO HOAI.doc