Giáo án môn Ngữ văn lớp 12 - Tài liệu tham khảo - Ngữ văn 12

Giáo án môn Ngữ văn lớp 12 - Tài liệu tham khảo - Ngữ văn 12

I. NGHỊ LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG ĐẠO LÍ:

ĐỀ: “Người hạnh phúc là người đem đến hạnh phúc cho nhiều người khác” (Đi-đơ-rô). Suy nghĩ của em về câu nói trên?

1. Mở bài:

- Hạnh phúc là mục đích mà cả nhân loại hằng ao ước muôn đời. Hạnh phúc là gì? Sống như thế nào để có hạnh phúc.

- Đi-đơ-rô, nhà tư tưởng lớn của nước Pháp đã có câu trả lời đáng cho mọi người suy nghĩ.

2. Thân bài:

- Luận điểm 1: Trả lời câu hỏi: Hạnh phúc là gì? Câu nói có ý nghĩa gì?

+ Có nhiều cách trả lời khác nhau: là sự thoả mãn những khao khát trong đời sống; là sự thành công sau những thất bại để đạt được mục đích đã được đặt ra.

+ Điều chung nhất của hạnh phúc: sự mãn nguyện, cảm thấy mình đã sống đúng với ý nghĩa của sự sống.

 

doc 39 trang Người đăng hien301 Lượt xem 1418Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án môn Ngữ văn lớp 12 - Tài liệu tham khảo - Ngữ văn 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
I. NGHỊ LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG ĐẠO LÍ:
ĐỀ: “Người hạnh phúc là người đem đến hạnh phúc cho nhiều người khác” (Đi-đơ-rô). Suy nghĩ của em về câu nói trên?
1. Mở bài:
- Hạnh phúc là mục đích mà cả nhân loại hằng ao ước muôn đời. Hạnh phúc là gì? Sống như thế nào để có hạnh phúc.
- Đi-đơ-rô, nhà tư tưởng lớn của nước Pháp đã có câu trả lời đáng cho mọi người suy nghĩ.
2. Thân bài:
- Luận điểm 1: Trả lời câu hỏi: Hạnh phúc là gì? Câu nói có ý nghĩa gì?
+ Có nhiều cách trả lời khác nhau: là sự thoả mãn những khao khát trong đời sống; là sự thành công sau những thất bại để đạt được mục đích đã được đặt ra.
+ Điều chung nhất của hạnh phúc: sự mãn nguyện, cảm thấy mình đã sống đúng với ý nghĩa của sự sống.
- Luận điểm 2: Đánh giá ý nghĩa câu nói
+ Câu nói đã khẳng định một số lối sống đúng đắn, tốt đẹp. Hạnh phúc của một các nhân phải gắn liền với hạnh phúc của người khác.
+ Đây cũng là lối sống mà các bậc hiền triết ngày xưa, dân tộc ta luôn đề cao. Dẫn chứng: Đạo phật khuyên người ta yêu thương muôn loài, dân tộc khuyên “Thương người như thể thương thân”; vua Lí Thánh Tông thấy con gái mình mặc áo ấm mà thương cho những tù nhân giá rét trong ngục
- Luận điểm 3: Bàn bạc, nêu ý kiến bản thân: Sống như thế nào là đem đến hạnh phúc cho nhiều người?
+ Là làm được những viện to lớn, thoả mãn niềm mong ước của nhiều người, của nhân loại. Dẫn chứng: nhà phát minh, một bậc anh hùng giải phóng dân tộc.
+ Trong cuộc sống đời thường: hết lòng giúp đỡ người khác không chỉ một lần mà là suốt cả cuộc đời.Dẫn chứng: Nhà bác học Pax-tơ hạnh phúc khi cứu được em bé và tìm được thuốc chủng ngừa; một bà xơ chăm sóc những người bị bệnh phong,
+ Đạo lí của câu nói đòi hỏi hành động tích cực: không chỉ yêu thương mà còn “đem lại hạnh phúc” cho nhiều người. Đòi hỏi sự quên mình, lấy hạnh phúc của mọi người làm hạnh phúc của mình, có thể xả thân vì hạnh phúc của mọi người.
3. Kết bài:
- Ít nhất một lần trong đời, ai cũng đặt câu hỏi: Hạnh phúc là gì? Sống như thế nào để có hạnh phúc?
- Hãy một lần nghĩ và làm theo phương châm của Đi-đơ-rô.
II. NGHỊ LUẬN VỀ HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG:
ĐỀ: “Vào đại học, có phải là con đường tiến thân duy nhất?”
1. Mở bài:
- Tình hình hiện nay: Mỗi năm hàng triệu gia đình, học sinh đi thi.
- Phải chăng: Vào đại học là con đường tiến thân duy nhất tuổi trẻ ngày nay?
2. Thân bài:
- Luận điểm 1: Vào đại học đó là con đường tiến thân đẹp đẽ và đáng mơ ước.
+ Luận cứ 1: Nền kinh tế tri thức ngày nay cần phải có trí thức chuyên ngành mới có thể tham gia vào hệ thống sản xuất và các dịch vụ xã hội.
+ Luận cứ 2: Tuổi trẻ thời kì tốt nhất cho việc tiếp thu tri thức.
+ Luận cứ 3: Nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học.
- Luận điểm 2: Không phải bất kì ai sau khi học xong trung học, cũng phải vào đại học. Có nhiều lí do:
+ Luận cứ 1: Hoàn cảnh gia đình khó khăn
+ Luận cứ 2: Nguyên do chủ quan: sức khoẻ, trình độ.
- Luận điểm 3: Còn có con đường nào khác?
+ Luận cứ 1: Không nên coi con đường vào đại học phải đạt được bằng bất cứ giá nào.
+ Luận cứ 2: Nếu vì hòan cảnh: Có thể vừa học vừa làm.
+ Luận cứ 3: Có thể chọn ngành học thấp hơn, sau đó liên thông lên đại học.
+ Luận cứ 4: Chọn nghề chuyên môn và học tốt nghề nghề ấy, trở thành người thợ lành nghề.
- Luận điểm 4: Rút ra bài học cho bản thân.
+ Luận cứ 1: Dù tiến thân bằng con đường nào, cũng phải coi việc học là công việc suốt đời.
+ Luận cứ 2: Không ngừng học tập để bổ sung kiến thức
3. Kết bài:
- Coi chuyện vào đại học sau 12 năm là niềm mong ước đẹp đẽ, cần tập trung và cố gắng thực hiện bằng được.
- Nhưng đó chỉ là một trong những con đường đi đến sự thành công ở đời.
ĐỀ: Có một lần nào đó, đang đi trên đường, em chợt nhìn thấy một cảnh tượng ngộ nghĩnh: Hai người đàn ông đi xe đạp chẳng may đụng xe vào nhau, cả hai người ngã. Sau đó, cả hai cùng đứng dậy, mỗi người nhìn thoáng vào xe mình, gật đầu chào nhau và đựng xe đi tiếp. Em nghĩ gì về câu chuyện đó?
Dàn ý:
1. Mở bài:
- Kể lại câu chuyện theo đề bài.
- Từ câu chuyện gợi chúng ta suy nghĩ gì?
2. Thân bài:
- Luận điểm 1: Một câu chuyện tưởng buồn mà thành vui.
+ Thật không vui khi phải chứng kiến một tai nạn giao thông dù nhỏ, nhất là trong một buổi sáng đẹp trời.
+ Nhưng thật bất ngờ, tình huống được giải quyết một cách nhanh chóng và giản dị như vậy.
+ Điều vui nhất: họ đã có cách ứng xử thật văn hoá.
- Luận điểm 2: Từ câu chuyện nhỏ, gợi cho ta những điều lớn hơn.
+ Ta cũng có khi lâm vào tình huống như vậy, nhưng cách ứng xử thì khác hẳn: cãi vả, cho mình là người có lí, có thể xông vào không nhịn được
+ Đã có không ít những trường hợp dẫn đến kết quả đáng buồn, đáng tiếc. Ngay cả bản thân mình cũng như vậy.
- Luận điểm 3: Từ đây, ta cần có văn hoá ứng xử.
+ Mỗi con nngười ngày nay trong xã hội, mỗi cách ứng xử của mình đều có tác động đến người khác.
+ Ứng xử của hai người trong câu chuyện trở thành cách ứng xử rất đẹp. đáng được nêu gương. Nhường nhịn nhau thi ta sẽ không thiệt hại gì.
+ Từ tình huống ta suy ra: còn biết bao tình huống khác đòi hỏi ta phải có cách ứng xử có văn hoá: nhường cho người khác như nhường ghế cho người già, phụ nữ, trẻ em khi đi xe, biết xin lỗi, biết cảm ơn, không gây mất trật tự nơi công cộng
+ Xã hội sẽ trở nên tốt đẹp hơn khi có những cách ứng xử như vậy.
3. Kết bài:
- Trong giao lưu quốc tế xã hội ngày nay, nếp ứng xử góp phần nâng cao vị trí của đất nước.
- Các du khách nước ngoài có thể đánh giá ta qua một câu chuyện nhỏ gặp trên đường phố.
III. MỘT SỐ ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
ĐỀ: Phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ con em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
v DÀN BÀI GỢI Ý:
I. MỞ BÀI:
- Hoàn cảnh sáng tác bài thơ: Tháng 10 năm 1954, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, thủ đô Hà Nội được giải phóng, Tố Hữu rời rừng núi Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhà thơ đã dành cho cuộc chia li này một trong những bài thơ đặc sắc nhất: bài thơ Việt Bắc (tập thơ Việt Bắc – 1955).
- Dẫn vào đoạn thơ: Nhắc lại những kỉ niệm từng gắn bó với Việt Bắc, Tố Hữu có những đoạn thơ tưởng có thể đặt vào một trong những hợp tuyển những bài ca dao ngợi ca quê hương đất nước: 
“ Ta về, mình có nhớ ta
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
II. THÂN BÀI:
Nhận xét chung về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ:
- Cũng như cả bài thơ, đoạn thơ được viết theo thể lục bát của dân tộc, một thứ lục bát với những lời thơ dể hiểu, giản dị và giàu hình ảnh như ca dao. Đặc biệt, trong đoạn thơ này, cũng như toàn bài thơ, cảm xúc của nhà thơ được thể hiện qua những lời đối thoại giữa kẻ ở với người đi trong một cuộc tiễn đưa. Đại từ dùng để xưng hô là cặp đại từ “mình – ta”, gợi nhớ những câu ca quen thuộc ngày xưa:
“ Mình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”.
- Đi theo phong cách diễn tả của ca dao, Tố Hữu tạo nên trong đoạn thơ những bức tranh phong cảnh với những nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều.
Khẳng định nỗi nhớ Việt Bắc là nhớ thiên nhiên và con người:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”.
- Trong bài thơ của Tố Hữu, hai đại từ “mình – ta” được luân chuyển vị trí, khi thì là người ở, khi thì là người ra đi. Riêng trong đoạn thơ này, ta là người ra đi là Tố Hữu, mình là người ở lại, là Việt Bắc. Người ra đi muốn hỏi người ở lại: không biết sau khi ta về xuôi rồi, người ở lại có còn nhớ ta nữa chăng?
- Đây chỉ là câu hỏi mang tính tu từ, hỏi để tạo cái cớ cho người ra đi khẳng định về chính mình. Người ở lại có thể hiểu rằng: Sau khi ta về xuôi rồi, không biết người ở lại có còn nhớ đến ta không, riêng ta sẽ nhớ mãi.
- Nỗi nhớ được gói trong ba tiếng “hoa cùng người”:
+ Hoa ở đây vừa mang nghĩa chính, vừa mang nghĩa hoán dụ: Hoa là hoa mà cũng là thiên nhiên nói chung.
+ Từ “cùng” tạo nên một sự liên kết mật thiết: giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc là một sự gắn bó, có hoa là có người, có người là có thiên nhiên.
- Với nỗi nhớ trong sự gắn đó ấy, Tố Hữu tạo nên bốn câu thơ cặp lục bát, vẽ ra bốn bức tranh, bức nào cũng có “hoa cùng người”. Từ “nhớ” trở đi trở lại, xuyên suốt đoạn thơ.
c. Bức tranh thứ nhất: Việt Bắc với những đường nét, màu sắc tiêu biểu.
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
- Hai câu thơ, câu trên là hoa, thiên nhiên Việt Bắc: Rừng Việt Bắc với những màu sắc tiêu biểu là màu xanh. Đúng là hình ảnh của một vùng đất với núi rừng trùng điệp, hình ảnh luôn luôn hiển hiện trong kỉ niệm của người đến Việt Bắc.
- Cái hay trong bức tranh còn là hình ảnh hoa chuối đỏ tươi, một hình ảnh quen thuộc khác của thiên thiên Việt Bắc. Màu đỏ tươi của hoa chuối làm cho cảnh thiên nhiên trở nên rực rỡ. Cả hai màu xanh và đỏ hoà hợp.
- Nhớ hoa cùng người, từ thiên nhiên, nhà thơ nhớ đến con người quen thuộc của Việt Bắc. Đây chính là hình ảnh của con người lao động trong cuộc sống thường ngày. Con người trên đèo cao, được mặt trời chiếu sáng, nắng lấp lánh ánh thép nơi chiếc dao gài thắt lưng.
d. Bức tranh thứ hai: Việt Bắc mùa xuân.
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
- Thiên nhiên cũng là rừng nhưng là một thứ rừng mang vẻ đẹp đặc trưng của mùa xuân Việt Bắc, rừng mơ đang giữa mùa hoa. “Nở trắng rừng” là cả một không gian bát ngát màu trắng, thứ màu trắng tinh khuyết của những cánh hoa mơ.
- Hoà hợp với vẻ đẹp thuần khiết và dịu dàng ấy của ngày xuân, hình ảnh con người tuy vẫn là người lao động bình dị, nhưng công việc gợi lên không khí tĩnh lặng, thanh bình: “chuốt giang”, “đan nón”. Nhà thơ làm rõ không khí ấy bằng hình ảnh và cả thanh điệu: “chuốt” – “từng sợi giang”.
e. Bức tranh thứ ba, mùa hạ:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”.
- Rừng trong tranh lúc này là “rừng phách”, lại là rừng phách với màu vàng.
- Cấu trúc của câu thơ (“Ve” – “kêu rừng phách đổ vàng”) còn như cho phép người đọc hiểu rằng: tiếng ve kêu khiến rừng phách đổ sang màu vàng, bởi cái màu vàng của rừng phách nhẹ quá, lung linh quá. Thật ra, theo đúng lo-gích, nghĩa của câu thơ là nghe tiếng ve kêu, thấy rừng phách đổ vàng.
- Câu thơ gợi một không gian lấp lánh màu vàng: Màu vàng trên cao, mùa vàng phủ đầy mặt đất, mùa vàng lơ lửng giữa trời
- Giữa màu vàng ấy, có những bước chân của một cô gái nhỏ Việt Bắc đang hái măng trong rừng. Thật tĩnh lặng và đáng yêu.
+ Tố Hữu không chỉ nói cô gái, mà nói là “cô em gái”, rất trìu mến.
+ Tố Hữu gọi việc lấy măng là “hái măng”, giống như việc hái hoa hái quả. Thật ra, việc lấy măng rừng không phải là việc nhẹ nhàng như hái hoa hái quả.
+ Hình ảnh “cô em gái” còn thêm hai tiếng “một mình”, khiến cho bức tranh càng tăng thêm vẻ yên bình.
g. Bức tranh thứ tư, mùa thu Việt Bắc:
“Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”.
- Bức tranh rất đặc biệt: rừng, không rõ rừng gì, chỉ biết là “rừng thu”. Màu của rừng cũng là màu của “trăng rọi hoà bình”, màu của ánh trăng toả xuống lá rừng.
- Bốn tiếng “trăng rọ ...  lái đò được tả như một người lao động chân chính lại đồng thời như một vị tướng tài ba nơi trận mạc.
- Một vị tướng đầy dũng khí mà cũng đầy sức mạnh, Với một mái chèo làm vũ khí như một thanh gươm xông thẳng vào giữa những trùng vây của kẻ địch, sử dụng món vũ khí lợi hại của mình để thắng địch:
“ Ông lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất tung lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình.”
- Một vị tướng dày dạn kinh nghiệm, biết rõ tất cả những nơi nguy hiểm, những thác ghềnh đầy cạm bẫy của sông Đà để có cách đối phó và chiến thắng.
+ Với những bãi đá nổi đá chìm của sông Đà như bày ra “ thạch trận” với đủ thứ mưu ma chước ma quỷ, đủ thứ cách đánh nham hiểm mà ác thứ binh pháp trên đời có thể nghĩ ra:
“Ông lái đò đã nắm chắt binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”.
+ Với những thác ghềnh với bao nhiêu luồng nước, có luồng sinh, có luồng tử, kẻ non tay có thể chết vì chỉ nhìn thấy đã hoảng, chần chừ không biết chọn lấy luồng nào, ông lái đò có cách đánh của người qua cảm:
“ Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chặt lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”.
- Một vị tướng quyết liệt đến tận cùng, vượt qua mọi đau đớn, có khi phải cắn răng mà lao vào chỗ hiểm nghèo bằng một sức chịu đựng phi thường:
“Sóng nước đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở vô bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đòNhưng ông đò cổ nén vết thương, hai chân vẫn kẹp lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm.”
Bị đánh ngón đòn hiểm độc nhất, đau đớn đến độ mặt méo bệch đi, mà vẫn nén vết thương để chiến thắng, còn có thể nói gì hơn nữa về về một dũng sĩ ngoài mặt trận?
3. Không chỉ một người lao động hay một vị tướng, người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân cũng thực sự là một người nghệ sĩ.
- Một con người tài ba đến độ tuyệt vời, lúc nào cũng đầy lòng tự tin, giữa muôn trùng nguy hiểm vẫn có phong thái ung dung của người làm chủ thế trận, hành động cứ như một nhà nghệ sĩ. Đây không chỉ là một người lao động làm ngề lái đò, đây là một nghệ sĩ thực thụ của nghệ thuật lái đò, nhất là lái đò trên sông Đà.
Hãy xem cách ông lái đò đưa thuyền lách qua những cửa đá trên dòng nước chảy xiết của sông Đà:
“Thuyền vút qua cửa đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa lái được lượn được. Thế là hết thác.”
- Coi nguy hiểm như chuyện thường ngày phải có của cuộc sống, đến những lúc nghỉ ngơi, hình ảnh người lái đò sông Đà cũng thật đẹp:
“Đêm áy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và hoàn toàn bàn tán về cá anh vũ, ca dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá màu khôCũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua.”
- Là một nhà nghệ sĩ, Nguyễn Tuân hoàn toàn đồng cảm với lối sống ấy:
 “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên cũng chẳng có gì hồi hộp đáng nhớHọ nghĩ thế lúc ngừng chèo.”
III. KẾT BÀI:
- Yêu cái đẹp đến tận cùng máu thịt, nhưng phải sống giữa cuộc đời đầy chuyện gai mắt chướng tai, nhiều lúc Nguyễn Tuân từng ca ngợi lối sống truỵ lạc, cũng là một cách để chống lại cái thứ xã hội tầm thường danh lợi nhỏ nhen ấy, nên cũng là một lối sống đẹp.
- Thế rồi, đất nước mở ra cho ông một chân trời mới: cái đẹp không ở đâu xa, cái đẹp có ở ngay trên dáng hình Tổ quốc và nhân dân. Một nguồn cảm hứng tươi trẻ như được hồi sinh. Những trang viết về con sông Đà hùng vĩ, về người lái đò sông Đà, thật là thứ vàng mười như ông hằng ao ước.
ĐỀ: Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
v DÀN BÀI THAM KHẢO:
I. MỞ BÀI:
- Chiếc thuyền ngoài xa viết năm 1983, đây là những năm chuyển mình mạnh mẽ của đất nước và của văn học. Tác phẩm lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in (in năm 1987).
- Truyện in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ 2.
- Nhân vật để lại ấn tượng mạnh mẽ nhất là người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ nghèo khổ, lam lũ nhưng có đức tính hi sinh cao cả, bao dung, hồn hậu và rất trải đời.
II. THÂN BÀI:
1. Giới thiệu nhân vật:
- Nhân vật người đàn bà hàng chài là hiện thân cho mảng đời tăm tối cơ cực vẫn tồn tại quanh cuộc sống của chúng ta.
- Dù cuộc sống riêng có phải chịu trăm nỗi cơ cực, tủi hờn nhưng ở chị vẫn toát lên những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam: tấm lòng nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
- Người đàn bà ấy không tên nhưng là nhân vật quan trọng trong tác phẩm. Chị có vai trò khá quan trọng trong sự phát triển cốt truyện, mạch truyện, trong mối quan hệ với các nhân vật khác như Phùng, Đẩu, người chồng và chị em thằng bé Phác, trong việc thể hiện quan điểm nghệ thuật và tấm lòng nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu đối với con người và cuộc sống.
2. Phân tích nhân vật:
* Ngoại hình:
- Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả, nhà ở phố huyện sống bằng nghề buôn bán bả lưới, nhưng ngay từ nhỏ chị đã có một ngoại hình xấu xí “Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa”. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy nên chị có mang với một anh con trai hàng chài hay đến nhà chị mua bả về đan lưới. Lúc ấy, chồng chị tuy cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ đánh đập chị tàn nhẫn như bây giờ.
- Những nét xấu xí, thô kệch ấy, qua bao nhiêu năm tháng lam lũ, vất vả, lo toan vì cuộc sống nghèo khổ nên càng được thể hiện rõ hơn: một người đàn bà “trạc ngoài bốn mươi” với những “đường nét thô kệch”, “rỗ mặt”, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá”, “cặp mắt nhìn xuống chân”, tay “buông thõng xuống” ra vẻ nhẫn nhục, cam chịu.
* Sức chịu đựng và sự hi sinh thầm lặng của người đàn bà hàng chài khiến cho nhiều người phải ngỡ ngàng.
- Vừa ở dưới thuyền lội lên đến bên chiếc xe rà phá mìn, chị đã bị chồng dùng chiếc thắt lưng, chẳng nói chẳng rằng quật tới tấp vào người. Hắn vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng đau đớn rên rỉ: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hềt đi cho ông nhờ!”
- Chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập dã man, nghệ sĩ Phùng tưởng chị sẽ né tránh, bỏ chạy hay kêu van nhưng anh rất ngạc nhiên, sửng sốt khi thấy chị hoàn toàn cam chịu, nhẫn nhục.
* Người đàn bà ấy cũng rất tự trọng:
- Bị chồng đánh đập dã man tàn nhẫn nhưng chị chỉ căn răng chịu đựng, không hề kêu rên. Nhưng khi biết chuyện mình bị chồng đánh đã bị Phác và nghệ sĩ Phùng chứng kiến, chị cảm thấy “vừa đau đớn vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương hại cho tình cảnh trớ trêu mà chị đang chịu đựng, dù cho đó là đứa con trai của chị. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng chị không bận tâm, sẵn sàng nhẫn nhục chịu đựng. Và chị không muốn đứa con trai của mình cảnh cha nó đánh đập mẹ nó tàn nhẫn như thế, huống hồ chi lại có sự chứng kiến của một người lạ mặt. Đó chính là lòng tự trọng, là nhân cách tốt đẹp của người phụ nữ đáng thương và đáng quý này.
* Vẻ đẹp khác trong tâm hồn của người đàn bà hàng chài:
- Khi ở toà án huyện, chính người phụ nữ ấy đã đem đến cho Phùng, Đẩu và người đọc nhiều nhận thức thật mới mẻ.
- Được mời lên toà án để giải quyết việc gia đình, lúc đầu chị lúng túng, sợ sệt, rụt rè nên “tìm đến một góc tường để ngồi”.
- Nhà văn đã dụng công nhấn mạnh vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng chài:
+ Với chánh án Đẩu và người nghệ sĩ Phùng, lúc đầu chị “thưa gởi”, xưng “con” và đã có lúc chắp tay vái lia lịa van xin “Con lạy quý toà (). Quý tào bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.
+ Nhưng khi lấy lại được sự tự tin, tâm thế đã thay đổi, người đàn bà ấy đột ngột chuyển cách xưng hô: “Chị cảm ơn các chú, lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăncho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc.”
- Và qua những lời giãi bày rất chân tình, rất có sức thuyết phục của chị, Đẩu, Phùng và người đọc đã “vỡ ra” nhiều điều mà trước đây họ chưa biết về chị/
+ Các anh đã nhận ra đằng sau cái vẻ cam chịu, nhịn nhục, đáng thương là cả một tấm lòng vị tha và giàu đức hi sinh của chị. Chị nói: “đám đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Chị đã chấp nhận sự đau khổ để hi sinh cho cuộc sống của đàn con. Nếu người phụ nữ chấp nhận người đàn ông uống rượu, thì chị cũng chấp nhận bị đánh, có điều chị chỉ xin chồng đánh ở trên bờ để các con đừng nhìn thấy. Đó là một cách ứng xử rất nhân bản. Chị không muốn gieo vào lòng các con thái độ căm thù đổi với cha của chúng.
+ Đẩu và Phùng cũng nhận ra được lí do không thể bỏ chồng. Lời giải thích của chị thật có lí, điều đó chứng tỏ chị không phải là một người nhu nhược, hèn nhát mà là một người phụ nữ sâu sắc và từng trải. Chị đã cho các anh biết: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sấp con mà nhà nào cũng trên dưới chục đứa”.
+ Chị còn cho các anh biết thêm: trong đau khổ triền miên chị vẫn có được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi. Chị nói:
§ “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”
§ “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”
Có thể nói người đàn bà hàng chài là biểu tượng cho tình mẫu tử, biểu tượng cho khát vọng hạnh phúc gia đình. Với chị, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên, cho dù trong gia đình ấy còn nhiều cảnh ngang trái, khổ đau, nhưng chị vẫn nâng niu, trân trọng từng niềm hạnh phúc thật nhỏ nhoi.
III. KẾT BÀI:
- Xây dựng hình tượng người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thế sự của Nguyễn Minh Châu, ông đã khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người lao động nghèo khổ. Dù trong cảnh đói nghèo, lạc hậu, người phụ nữ vùng biển vẫn bộc lộ một tấm lòng và một tính cách đầy nữ tính.
- Qua hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài này, ta cũng cảm nhận được tấm lòng nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu: đó là cái nhìn yêu thương, thông cảm về số phận bất hạnh của con người; đó là việc phát hiện và khẳng định những phẩm chất cao đẹp của họ; đó còn là niềm khao khát có một chỗ dựa tinh thần, một cuộc sống ấm no bình yên, một niềm hạnh phúc gia đình bình dị.
- Cũng qua hình tượng nhân vật người đàn bà, ta nhận ra quan điểm sáng tác của Nguyễn Minh Châu rất sâu sắc, nhiều chiều về con người và cuộc sống. Ông nhận thấy cuộc sống này có cả ánh sáng và bóng tối, nước mắt và nụ cười, bề nổi và bề chìm.
- Cuộc đời người đàn bà hàng chài còn nhiều ngang trái, khổ đau nhưng ta vẫn cảm nhận được cái nhìn thật nhân hậu của nhà văn đối với con người và cuộc sống.

Tài liệu đính kèm:

  • docMOT SO DE BAI THAM KHAO THI TOT NGHIEP THPT 20112012.doc