Chuyên đề: Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930-1945 (phần văn) - Đề 9

Chuyên đề: Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930-1945 (phần văn) - Đề 9

Đề 9: Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn văn tả cảnh ông Huấn

Cao “cho chữ” trong nhà giam (truyện ngắn Chữ người tử tù của

Nguyễn Tuân). Vì sao tác giả cho đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?

pdf 3 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1910Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề: Văn học lãng mạn và hiện thực phê phán 1930-1945 (phần văn) - Đề 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Chuyên đề: Văn học lãng mạn và 
hiện thực phê phán 1930-1945 (phần văn) 
Đề 9: Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn văn tả cảnh ông Huấn 
Cao “cho chữ” trong nhà giam (truyện ngắn Chữ người tử tù của 
Nguyễn Tuân). Vì sao tác giả cho đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa 
từng có”? 
* Gợi ý chi tiết: 
1. Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mỹ. Ông yêu đến say 
đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mỹ là đỉnh cao của nhân cách con 
người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ 
giàu có của riêng ông. Nhưng nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là 
hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, 
môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong 
của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông còn kết hợp mỹ với 
dũng. Truyện ngắn Chữ người tử tù (1939) trong tập Vang bóng một thời là áng văn hay 
nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của 
Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả “một cảnh tượng xưa nay chưa 
từng có”, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên quản ngục. 
2. a. Ông Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù là một nho sĩ tài hoa của một thời đã 
qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, 
một lãnh tụ của khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một người hết sức tài hoa và dũng 
khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy) Cao Bá Quát 
trước khi thành lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã đưa vào hai tính cách 
nổi bật của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát người viết chữ đẹp 
nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện 
lý tưởng thẩm mỹ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen 
tối tàn bạo lúc bấy giờ. 
b. Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nữa là viên 
quản ngục say mê chữ đẹp của Huấn quyết tìm mọi cách để “xin chữ” treo trong nhà. Lão 
coi chữ Huấn Cao như báu vật. 
Họ đã gặp nhau trong một tình huống oái oăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là 
một tên “đại nghịch” cầm đầu cuộc khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, “giặc” 
đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Con người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một 
tên quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri 
kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình 
huống đầy kịch tính ấy, tính cách của hai nhân vật được bộc lộ và tư tưởng chủ đề của 
truyện được thể hiện một cách sâu sắc. 
Nguyễn Tuân thích xây dựng nhân vật trong tình huống phi thường. Một viên quản ngục, 
tay sai đắc lực cho bộ máy thống trị lại tha thiết xin chữ một tội phạm. Còn Huấn Cao là 
một bậc anh hùng, một nghệ sĩ đâu có dễ dàng cho chữ một kẻ tiểu nhân đang làm nghề 
tàn ác, lừa lọc. Vậy mà việc cho chữ trong ngục đã diễn ra. 
Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu 
đối bao giờ”. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho 
chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống 
bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quí cái đẹp 
của chữ nghĩa. “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu 
một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy”. Viên quản ngục 
cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn 
mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự 
tuyệt: “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào 
đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm 
động “Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. 
Coi khinh cường quyền và tiền bạc. Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quí cái đẹp, 
cái tài, có sở thích cao quí. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được “thiên 
lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi “ở đây khó giữ 
được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. 
c. Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ 
được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của anh hùng Cao Bá Quát. Đêm hôm ấy, lúc 
trại giam tỉnh Sơn Chỉ còn tiến mõ vọng canh, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” 
đã bày ra. Trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy màng nhện, đất bừa bãi phân chuột, 
phân gián, tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao 
với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội bấy giờ. 
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong 
tình tiết này, cái mỹ và cái dũng hòa hợp “dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm 
dầu, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang giậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng 
tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm 
cất những đồng tiền kẽm đánh ô chữ trên phiến lục óng”. Hình ảnh người tử tù trở nên 
lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên bé nhỏ, bị động, khúm núm trước người 
tử tù. Nhưng với cách suy tưởng sâu xa hơn,chúng ta có thể hiểu được sự vĩ đại của viên 
quản ngục.Ta có thể ví rằng viên quản ngục là một vì vua anh minh và Huấn Cao là một 
tướng tài.Vua giỏi phải biết dùng tướng tài. 
d. Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có?”. 
Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài 
các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn 
thỉu, hôi hám. 
Cảnh tượng lạ lùng chưa từng có bởi vì người nghệ sĩ có tài viết chữ đẹp lại trổ tài trong 
khi cổ mang gông, chân đeo xiềng và sáng mai ra pháp trường. 
Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi 
lồng lộng, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho trật tự xã hội đương thời 
thì lại khúm núm run run. 
Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó không phải 
cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính là cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái cao cả đang làm 
chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội 
tử tù, không còn quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp 
trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng 
thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người 
tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, 
tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và 
nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo 
lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái đẹp gắn 
liền với cái thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái đẹp 
của Nguyễn Tuân còn gắn với cái dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao đó, 
khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù. 
Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong 
đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là thanh âm trong trẻo chen 
vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói 
nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự 
quy luỵ hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương 
này.Nhưng nếu không có người cai ngục biết trân trọng tài năng,thì Huấn Cao cũng chỉ 
làmột Huấn Cao tử tù. 
e. Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người 
tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, 
gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một 
không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn. 
3. Chữ người tử tù không còn là “chữ” nữa, không chỉ là mỹ mà thôi, mà “những nét chữ 
tươi tắn nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự chiến thắng 
của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh 
thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa mỹ và dũng trong hình tượng 
Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân, theo triết lý 
duy mỹ của Nguyễn Tuân. 
Bài giảng của: Trung tâm Bồi dưỡng văn hóa 
và Luyện thi đại học Vĩnh Viễn 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfVanhochienthucphephan9.pdf