Chuyên đề: Thơ Tố Hữu (phần các tác phẩm) - Vấn đề 2: Việt Bắc

Chuyên đề: Thơ Tố Hữu (phần các tác phẩm) - Vấn đề 2: Việt Bắc

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1/ Để diễn tả những tình cảm cách mạng cao quí của nhân dân ta trong thời kỳ kháng

chiến chống Pháp. Tố Hữu đã dùng lối hát giao duyên đối đáp giữa nam và nữ trong các hội

hè đình đám ở miền Bắc nước ta. Thay vào nội dung tình yêu đôi lứa của dân ca bằng tình

nghĩa cách mạng, tấm lòng son sắt thuỷ chung với Đảng, với nhân dân, qua cách nói, cách

xưng hô “mình - ta”, tình cảm cao quí đó trở nên gần gũi, thắm thiết hơn. Hai nhân vật trữ

tình trong bài thơ là người cán bộ về xuôi, tượng trưng cho dân tộc Kinh và người dân Việt

Bắc, tượng trưng cho dân tộc miền ngược. Do đó tình cảm cách mạng ở đây còn là tình đoàn

kết gắn bó giữa hai vùng miền xuôi – miền ngược, thể hiện chính sách dân tộc của Đảng ta.

pdf 14 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1744Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề: Thơ Tố Hữu (phần các tác phẩm) - Vấn đề 2: Việt Bắc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề 2: THƠ TỐ HỮU 
 Phần 2: Các tác phẩm 
Vấn đề 2: VIỆT BẮC 
“Mười lăm năm ấy ai quên 
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng Hòa” 
(Tố hữu – Việt Bắc) 
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN 
 1/ Để diễn tả những tình cảm cách mạng cao quí của nhân dân ta trong thời kỳ kháng 
chiến chống Pháp. Tố Hữu đã dùng lối hát giao duyên đối đáp giữa nam và nữ trong các hội 
hè đình đám ở miền Bắc nước ta. Thay vào nội dung tình yêu đôi lứa của dân ca bằng tình 
nghĩa cách mạng, tấm lòng son sắt thuỷ chung với Đảng, với nhân dân, qua cách nói, cách 
xưng hô “mình - ta”, tình cảm cao quí đó trở nên gần gũi, thắm thiết hơn. Hai nhân vật trữ 
tình trong bài thơ là người cán bộ về xuôi, tượng trưng cho dân tộc Kinh và người dân Việt 
Bắc, tượng trưng cho dân tộc miền ngược. Do đó tình cảm cách mạng ở đây còn là tình đoàn 
kết gắn bó giữa hai vùng miền xuôi – miền ngược, thể hiện chính sách dân tộc của Đảng ta. 
 2/ Hai mươi câu thơ mơ đầu bài thơ là lời trao gởi ân tình thắm thiết của Việt Bắc đối 
vơi cán bộ cách mạng về xuôi . Một loại câu hỏi tu từ và điệp kiểu câu : 
Mình về mình có nhớ ta 
Mình về mình có nhớ không 
Tiếng ai 
Mình đi,có nhớ những ngày 
Gợi cho người đọc cảm nhận được tình cảm lưu luyến không muốn rời trong buổi chia 
tay người đi – kẻ ở, qua ý thơ: Người về có nhớ ta không ? 
a) Nhớ Việt Bắc là nhớ quê hương cách mạng, nhớ ngọn nguồn cách mạng, nơi đã bảo 
bọc cán bộ, chiến sĩ cách mạng trong những ngày sóng gió, khi Đảng còn non trẻ. Hình ảnh “ 
mười lăm năm ấy “ là một hình ảnh cụ thể nhắc nhở thời kỳ đầu thành lập lực lượng vũ trang, 
tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, cho đến ngày kháng chiến chống 
pháp thắng lợi. Cả một thời gian dài gian khổ, đắng cay! Việt Bắc đã ân tình, ân nghĩa với 
cách mạng như thế , cho nên: “nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn ?”. 
Người ra đi làm sao tránh khỏi tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng ? Hai tính từ lấp láy 
“bâng khuâng”, “bồn chồn” cùng hiện diện trong câu thơ đối ý càng khắc họa đậm nét tâm 
trạng ấy . 
b) Nhớ Việt Bắc còn là những kỷ niệm gian khổ, khó khăn trong thời kỳ kháng chiến. 
Câu thơ liệt kê “Mưa nguồn suối lũ”, được nhấn mạnh thêm bằng từ “những”, từ “cùng” để 
tạo một loạt “những mây cùng mù” nhấn mạnh thêm ý gian khổ, vất vả của cuộc sống kháng 
chiến. Hình ảnh “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” có sức khái quát cao, nói lên tình 
đoàn kết chiến đấu, chia sẻ gian lao giữa hai vùng miền xuôi-miền ngược là thấm thía . 
c) Nhớ Việt Bắc cũng là nhớ tình nghĩa đồng bào. Bằng cách nói mộc mạc, diễn tả 
tình cảm kín đáo mà tha thiết, tác giả bộc lộ niềm thương nỗi nhớ của người ở lại. 
 “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. “Trám”, “măng” là đặc sản của Việt Bắc, từng 
làm thức ăn lót lòng thay ngô, sắn, cơm, khoai trong những ngày kháng chiến. Ngày nay, qua 
rồi thời kỳ đói khổ, khó khăn, nhắc nhở những sản vật này với tấm lòng thiết tha trìu mến đối 
với Việt Bắc ; xem đó là kỷ niệm sâu sắc trong đời. Để làm nổi bật tấm lòng son sắc, thuỷ 
chung, thủ pháp đối lập đã được nhà thơ sử dụng thành công. 
Hắt hiu lau xám Ù Đậm đà lòng son 
Biện pháp đảo ngữ ở đây làm cho hình ảnh câu thơ càng thêm sinh động . 
3/ Đoạn sau là lời đáp thiết tha tình nghĩa của cán bộ cách mạng trước lúc chia tay. 
Đoạn thơ đã tái hiện cảnh và người Việt Bắc bằng những chi tiết tiêu biểu nhất, đẹp đẽ nhất . 
a) Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và tình nghĩa chan hòa: 
Hình ảnh tượng trưng : “Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng “ kết hợp 
với cách dùng từ cùng nghĩa “chia, sẻ, cùng” diễn tả được mối tình cảm “chia ngọt sẻ bùi “ 
giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong “củ sắn”, 
“bát cơm”, “chăn sui “ mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. 
Hình ảnh chọn lọc : Người mẹ nắng cháy lưng  gợi người đọc liên tưởng đến sự tần 
tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang 
chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống 
kháng chiến không thể phai nhòa trong kí ức của người về xuôi . 
 Đoạn thơ còn dựng lại những khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh và âm thanh 
hết sức tiêu biểu cho sinh hoạt trong kháng chiến Việt Bắc. Câu thơ đối ý mà nêu bật tinh thần 
lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn rất gian khổ, khó khăn : 
 “Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo” 
Âm thanh “tiếng mõ rừng chiều “ và “chày đêm nện cối đều đều suối xa” là âm thanh 
đặc trưng của Việt Bắc, phản ánh sinh hoạt yên ả, bình dị nơi núi rừng, gợi nhớ một thời đã 
qua. 
 Đặc sắc nhất là đoạn thơ hồi ức về cảnh đẹp núi rừngViệt Bắc qua bốn mùa trong năm. 
Một loạt từ chỉ màu sắc, xanh, đỏ tươi, trắng, vàng tạo một cảm giác tươi mát, vui mắt cho 
các bức tranh phong cảnh. Mùa xuân với hoa mai nở trắng rừng. Mùa hạ với âm thanh “ve kêu 
“ tạo thành một bản hợp tấu của rừng xanh. Mùa thu với ánh trăng hòa bình êm đềm trong 
sáng. Giữa cây cỏ thiên nhiên, Con người Việt Bắc hiền hòa, nhân hậu lao động cần cù: đan 
nón chuốt tùng sơi giang, hái măng một mình. Bức tranh thiên nhiên trở nên sinh động và có ý 
nghĩa hơn. 
 b) Việt Bắc còn nghi lại những chiến công của bộ đội, dân quân ta trong kháng chiến 
chống pháp. Đoạn thơ toát lên vẻ đẹp hào hùng của dân quân ta: 
 Nhũng đường Việt Bắc của ta 
 Đêm đêm rầm rập như là đất rung 
 Quân đi điệp điệp trùng trùng 
 Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan 
 Bằng những điệp từ “điệp điệp, trùng trùng” và từ ngữ láy phụ âm đầu “rầm rập” 
diễn tả được hào khí ngút trời của bộ đội, dân công trên đường ra mặt trận. 
 Với lối nói thậm xưng “bước chân nát đá” tác giả cũng muốn nhấn mạnh sự lớn dậy 
và kiên cường, bất khuất của bộ đội ta thời kỳ này. 
 c) Việt Bắc còn là đầu não của cuộc kháng chiến toàn quốc, là niềm tin vững chắc của 
nhân dân về Đảng,về lãnh tụ: 
Nhìn lên Việt Bắc 
Trông về Việt Bắc 
 Câu thơ nói lên vị trí quan trọng của Việt Bắc mà cũng là nhấn mạnh uy tín của Bác, 
của Đảng đối với toàn dân, toàn quân trong thời kỳ kháng chiến gian khổ. 
B. LUYỆN TẬP 
I. CÂU HỎI 
1/ Thí sinh hiểu biết gì về bài thơ Việt Bắc? 
2/ Bài thơ Việt Bắc gợi nhớ đến lối cấu tứ cảnh chia tay và lối hát đối đáp trong ca 
dao, dân ca. Em hãy kể một số ví dụ về những bài ca dao, dân ca có cách cấu tứ như vậy? 
3/ Có người cho rằng ở bài thơ Việt Bắc, đối đáp chỉ là hình thức kết cấu bên ngoài, 
còn ở chiều sâu bên trong lại là dòng độc thoại nội tâm. Em có tán thành nhận xét ấy không, 
và nếu có thì hãy chứng minh điều đó. 
II. LÀM VĂN 
Bình giảng đoạn thơ sau trong “Việt Bắc” của Tố Hữu: 
“Ta về mình có nhớ ta 
Ta về ta nhớ những hoa cùng người 
[] 
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung “ 
III. GỢI Ý TRẢ LỜI :
2/ Lối hát đối đáp và cách cấu tứ cảnh chia tay thường được sử dụng rất phổ biến trong 
ca dao, dân ca ở mọi miền, như hát trống quân, hát quan họ, hát xoan, hát phường vải Một 
số câu ca dao quen thuộc có cách cấu tứ như vậy: 
- Mình về có nhớ ta chăng 
 Ta về ta nhớ hàm răng mình cười. 
- Mình về ta chẳng cho về 
 Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ. 
- Thuyền về có nhớ bến chăng 
 Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền. 
3/ Bài thơ được kết cấu theo lối đối đáp quen thuộc trong câu ca dao, dân ca. Nhưng ở 
đây không chỉ là lời câu hỏi, lời đáp mà còn là sự hô ứng, đồng vọng của cùng một tâm trạng. 
Lời đáp không chỉ nhằm giải đáp cho những điều đặt ra trong lời hỏi mà còn là sự mở rộng, 
làm phong phú thêm những ý tình được gợi ra trong lời hỏi. 
Có khi như ở đoạn cuối của bài thơ, cả lời hỏi và lời đáp đã hòa làm một để trở thành 
bản hợp ca đồng vọng, ngân vang những tình cảnh chung. Nhìn sâu hơn vào kết cấu của bài 
thơ, chúng ta thấy đối thoại chỉ là lớp kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu bên trong chính là lời 
độc thoại trữ tình của chủ thể đắm mình trong hoài niệm về quá khứ gian khổ mà tươi đẹp 
trong cách mạng và kháng chiến với những nghĩa tình thắm thiết. Tình nghĩa của nhân dân 
với cách mạng, của người cán bộ với Việt Bắc, của miền ngược với miền xuôi, của cả dân tộc 
với lãnh tụ Vì thế hai hình tượng kẻ ở và người đi cùng với lời hỏi và lời đáp có thể được 
bọc lộ đầy đủ và sâu sắc trong cách đối thoại, hô ứng. Sự thống nhất của tâm trạng trữ tình 
cũng được thể hiện rất rõ trong việc sử dụng hai đại từ “mình” và “ta” trong bài thơ. 
BÀI VĂN THAM KHẢO 
Đề 1: 
Kể về những thành tựu xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thưc 
dân Pháp xâm lược, có lẽ chúng ta không thể nào không nhắc đến “Việt Bắc” của Tố Hữu. 
Đây là một bài thơ mang đậm đà màu sắc dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. 
Thông qua đó, thể hiện niềm nhớ thương tha thiết và tình cảm sắt son đầm thắm của nhân dân 
Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, đồng thời cũng thể hiện tình cảm của người 
cán bộ kháng chiến với thiên thiên, núi rừng và con người Việt Bắc. 
Đoạn thơ gồm năm câu lục bát nhắc lại những cảnh thân thiết và tươi đẹp nhất về cảnh 
và người Việt Bắc trong hồi ức của người cán bộ cách mạng miền xuôi, ở đây chính là nhà 
thơ. 
Ta về mình có nhớ ta 
Ta về ta nhớ những hoa cùng người 
Đây là hai câu thơ mở đầu nhưng nó mang cảm xúc chung cho toàn đoạn. 
Ta là người ra đi cũng chính tác giả. Ở đây đoạn thơ kết cấu theo lối đối đáp thông 
thường trong dân ca truyền thống. Do đó, đây chính là lời hỏi ngọt ngào của người ra đi với 
người ở lại, dễ liên tưởng đây là một thiếu nữ địa phương. Và câu hỏi tu từ này là cái cớ bày 
tỏ tình yêu của một chàng trai miền đồng bằng với cô gái miền cao. 
“Hoa và người” thực là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Ở đây, thiên 
nhiên hòa điệu với con người, giữa chúng ngoài mối quan hệ tương hỗ còn có mối tương sinh 
lẫn nhau. Việt Bắc sinh ra con người và con người làm nồng ấm quê hương Việt Bắc. 
Tiếp theo, tám dòng lục bát còn lại như là một bức tranh tứ bình về thiên và con người 
nơi đây. Với bốn dòng lục, nhà thơ đã miêu tả phong cảnh núi rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là 
một bức tranh thiên thiên có nét đẹp riêng biệt. Qua đây, ta thấy chỉ riêng đoạn thơ này đã 
thấm đậm tính chất dân gian. 
Đầu tiên là bức tranh tả cảnh và khơi gợi cho chúng ta tình cảm mến thương của mùa 
đông Việt Bắc. Tại sao lại là mùa đông? Vì đây là hồi ức của tác giả trong giờ phút chia tay. 
Chúng ta còn nhớ, vào một đêm mùa đông 1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng 
chiến. Đặc biệt ở Hà Nội, những người lính lặng lẽ rời thành phố, bí mật theo chân cầu sông 
Hồng ngược xuôi lên căn cứ cách mạng Việt Bắc. Sự kiện này, đến tận bây giờ vẫn còn chứng 
minh bởi một khúc hát quen thuộc: 
“Đêm cái đêm rét quá chân cầu 
Anh, anh đã hẹn ngày mai trở lại 
Sông, sông Hồng bên bờ hát mãi 
Tỏ niềm tin khúc khải hoàn ca”. 
Lưu Trong Lưu trong”Một mùa đông” đã từng viết : 
“Đôi mắt em lặng buồn, 
Nhìn tôi mà không nói. 
Tình đôi ta vời vợi, 
Có nói cũng vô cùng 
Trời hết một mùa đông 
Không một lần đã nói” 
Thế vậy mà, ở chốn núi rừng heo hút này Mùa đông rừng biếc xanh đột ngột bùng lên 
Màu đỏ tươi của hoa chuối rừng như những bó đuốc thắp lên sáng rực. Vẻ đẹp nên thơ ... ng rẽ mà mọc thành rừng, rất nhạy cảm với thời tiết. 
Tiếng ve kêu râm ran đây đó đã báo hiệu mùa hạ, nhưng lúc này đã là cuối hạ. Cái lạnh đang 
tràn ngập núi rừng, lá cây bắt đầu chuyển sang màu vàng, cả rừng phách thay áo mới, chiếc áo 
vàng óng ánh dưới ánh nắng mặt trời. Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại càng lãng mạn 
hơn, vì trong cánh rừng bạt ngàn ấy có thêm bóng dáng của một sơn nữ ”hái măng một 
mình”. Đọc tới đây khiến ta liên tưởng đên một hình ảnh tương tự trong thơ Nguyễn Bính, 
một nhà thơ của đồng quê: 
“Thơ thẩn đường chiều một khách thơ 
Say nhìn ra rặng núi xanh lơ 
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo 
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ” 
Đây là khổ thơ thứ nhất trong bài thơ”Cô hái mơ”. Ta thấy có sự giống nhau rất ngẫu 
nhiên: cũng là rừng núi và cô gái đang làm việc. Chỉ có điều ở đây là “hái mơ” chớ không 
phải “hái măng”. 
Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng một động từ nào khác: bẻ, đốn 
vì chỉ có nó mới phù hợp nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái mà thôi. Ta hãy thử 
tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này đẹp biết bao. Cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ như thế 
lại khảm chạm thêm vào hình ảnh một người thiếu nữ nhẹ nhàng làm việc. Quả thật bức tranh 
vừa đẹp vừa có thần nữ. Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm 
cho nhau. 
Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng không kém phần đẹp đẽ. 
”Rừng thu trăng rọi hòa bình 
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” 
Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả bằng ánh 
trăng. Việc sử dụng hình ảnh trăng thật ra cũng không có gì độc đáo và mới mẻ. Tuy nhiên đặt 
vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc bấy giờ ta thấy được niềm mơ ước hòa bình của người cán bộ 
cũng như toàn dân Việt Bắc. Tất cả đều nói lên niềm tin tưởng chiến thắng sẽ đến với cách 
mạng với đất nước. 
Câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” nhòa đi để tạo 
nền cho cả đoạn và cũng nhằm trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Mình về có nhớ ta chăng?”. Tuy 
hỏi thế nhưng trong lòng họ vẫn biết rằng con người ấy vẫn thủy chung, son sắt. Đây là lời 
đồng vọng trong tâm hồn của cả hai người yêu nhau cùng nhớ, cùng thương” “nhớ ai tiếng 
hát ân tình thủy chung”. 
Qua đây ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục âm 
hưởng chung của nghệ thuật ca dao. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia 
cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và người ở lại. Đặc biệt là qua cách xưng hô 
“mình” với “ta”. Ở đây điệp từ nhớ dùng để xoáy sâu vào cảm hứng chủ đạo là hồi ức. Từ 
”rừng” lặp lại là khoảng không gian cho nỗi nhớ tồn tại. Màu sắc cũng ảnh hưởng không ít 
tới bức tranh, đỏ lặng lẽ, nhưng có sức sống. Màu con dao thể hiện sự hoạt động. Màu trắng 
làm thanh thoát con người và màu vàng làm cho bức tranh rực rỡ trong hoàng hôn. Rõ ràng 
bức tranh đã có sự hòa điệu của màu sắc. Bên cạnh đó,nhạc đệu dịu dàng trầm bổng khiến cả 
đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru – khúc hát ru kỉ niệm. Có 
lẽ khúc hát ru này không của ai khác là của ”ta” và cho người nhận là “mình”. Cả ”ta” và 
“mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung ”Tiếng hát ân tình “ và ân tình sâu nặng ấy mãi 
còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn chung thủy. 
Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài “Việt Bắc”. Cảnh thiên 
nhiên và con người trong đây được miêu tả hết sức tuyệt vời và tươi đẹp, tràn ngập sức sống. 
Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình khiến đoạn thơ như một bản tình ca về lòng chung thủy 
sắt son của người cách mạng đối với cả nhân dân, quê hương Việt Bắc. 
Đề 2: Phân tích đoạn thơ trích trong “Việt Bắc” của Tố Hữu 
Mình về mình có nhớ ta 
() Tân trào, Hồng Thái, mái đình cây đa 
Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay: 
Mình về mình có nhớ ta 
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng 
Mình về mình có nhớ không 
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ? 
Điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng, tràn đầy thương nhớ. 
Các xưng hô ”mình – ta” mộc mạc, thân gần gợi liên tưởng ca dao: “Mình về ta chẳng cho về 
– Ta nắm dải áo, ta đề bài thơ”. “15 năm”là chi tiết thực chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 
thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt Minh, đồng thời cũng là chi tiết gợi cảm – nói 
lên chiều dài gắn bó thương nhớ vô vàn. Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều – Mười lăm 
năm bằng thời gian Kim – Kiều xa cách thương nhớ mong đợi hướng về nhau. (Những là rày 
ước mai ao – Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình). Cảm xúc đậm đà chất dân gian, đậm đà 
chất Kiều. Âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy dạt dào thiết tha. Việt Bắc 
hỏi về : “Mình về mình có nhớ không – Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”. Câu hỏi 
chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn Việt Bắc – 
cội nguồn cách mạng. 
Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về: 
Tiếng ai tha thiết bên cồn 
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi 
Áo chàm đưa buổi phân li 
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay 
“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn 
vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu 
mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỉ 
niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội 
(10/1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy 
không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả. 
“Áo chàm đưa buổi phân li” là một ẩn dụ, màu áo chàm, màu áo xanh đen đặc trưng 
của người miền núi Việt Bắc – tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo 
chàm”, chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi 
nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước. 
Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”đầy tính chất biểu cảm – biết nói gì 
không phải không có điều để giải bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói không biết 
phải nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn nhạc để tình cảm 
ngân dài, sâu lắng 
12 câu tiếp theo kết thúc đoạn trích, là lời tâm tình của Việt Bắc: 
Mình đi, có nhớ những ngày 
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù 
Mình về, có nhớ chiến khu 
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? 
Mình về, rừng núi nhớ ai 
Trám bùi để rụng măng mai để già 
Mình đi, có nhớ những nhà 
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son 
Mình về, có nhớ núi non 
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh 
Mình đi, mình có nhớ mình 
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa 
 Điệp từ “nhớ” lập đi lập lại nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, ghi nhớ, nhắc nhở. 
Hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc. Tình cảm lưu 
luyến của người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gài lại niềm thương theo cách: 
“Thuyền về có nhớ bến chăng 
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” 
 Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian lao vất vả, hoạt 
động chiến đấu trong điều kiện trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn. 
Mình về có nhớ chiến khu 
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? 
 “Miếng cơm chấm muối” là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian khổ. 
Và cách nói “mối thù nặng vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước, đè 
nặng vai dân tộc ta. 
 Cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm dào dạt: 
Mình về, rừng núi nhớ ai 
Trám bùi để rụng, măng mai để già 
 Hình ảnh “Trám bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu vắng – “Trám 
rụng – măng già ” không ai thu hái. Nỗi ngùi nhớ bức bối như thúc vào lòng kẻ ở lại. 
 Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho 
nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, đồng thời 
nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của người cán bộ chiến sĩ. Xin đừng quên thời kỳ “kháng 
Nhật thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên để chăm lo giữ gìn sự 
nghiệp cách mạng. 
Mình đi, mình có nhớ mình 
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa 
 Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ 
trên tiêu biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm 
phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình 
tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định 
nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với “Việt Bắc”. 
ĐỀ LUYỆN TẬP 
Đề 3: Bình giảng những câu thơ sau đây trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu: 
“Ta về mình có nhớ không? 
Ta về ta nhớ Phủ Thông, Đèo Giàng 
() Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà”. 
Đề 4: Bình giảng những câu thơ sau đây trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu 
“Những đường Việt Bắc của ta 
() Đèn pha bật sáng như ngày mai lên!” 
 * LỜI BÌNH VỀ VIỆT BẮC: 
 - Nhà thơ chào Việt Bắc trước khi về xuôi. Anh gọi Việt Bắc là mình, như một người 
yêu, hay đúng hơn, như một người bạn đời đã cùng nhau gánh vác nhiều khó nhọc, chia sẻ 
nhiều vui buồn, nhiều tình và nhất là nhiều nghĩa với nhau. Cái nghĩa ấy từ những ngày càng 
gian khổ nhất mười mấy năm trước khi lực lượng cách mạng mới nhóm lên giữa rừng thiêng, 
những ngày chiến khu Việt Minh, “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Những người 
dân Việt Bắc cực khổ là những người trung thành nhất với cách mạng Giữa đời sống gian 
khổ, cái tình nghĩa cách mạng là ấm áp nhất, đẹp đẽ nhất. Cái nghĩa tình từ thuở đầu cách 
mạng ấy càng sâu sắc hơn trong kháng chiến. Những người dân Việt Bắc sống vẫn chật vật vô 
cùng giữa thiên nhiên lộng lẫy mà gay gắt. Nhà thơ nhìn thấm thíavào cái anh dũng thầm lặng 
hàng ngày của quần chúng lao động. 
Thương nhau chia củ sắn lùi 
 Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô 
 Và nụ cười thương yêu của nhà thơ bỗng gặp hình ảnh cô em gái hái măng một mình 
như làm sáng cả rừng núi. 
  Khi Tố Hữu làm thơ về những phiên họp của Chính phủ, câu thơ trang trọng và 
sang sảng, đầy ánh sáng của buổi trưa rực rỡ trong tâm hồn nhà thơ. Ánh sáng ấy dẫn đến 
một đoạn kết, có thể là cái nút động của cả bài thơ khi nhìn về “mười lăm năm ấy”: 
Ở đâu u ám quân thù 
Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi 
 Quê hương cách mạng dựng nên Cộng Hòa 
(Theo Nguyễn Đình Thi) 
Mình đi mình có nhớ mình 
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? 
  Linh hồn của câu đọng ở ba chữ mình. Hai chữ mình trước ngôi thứ hai đã đành, 
chữ mình sau cũng là ngôi thứ hai. Lạ nhất là đại từ mình ngôi thứ hai này. Trong ca dao 
không gặp kiểu đại từ đổi ngôi như vậy. Câu thơ vốn có gốc rễ sâu xa trong ca dao của dân 
tộc bỗng vụt lớn lên, mới mẻ, hiện đại. Nói nôm na ra là anh đi anh có nhớ anh không?... Câu 
hỏi thật sâu nặng nghe mà giật mình. Ca dao chỉ đòi nhớ em thôi. Vậy mà Tố Hữu đã thêm 
hương thêm sắc cho chữ tình. Và chủ đề sâu sắc của bài thơ lộ ra một cách kín đáo, chứ 
không đợi đến những câu ướm hỏi dè chừng sau này. 
(Theo Nguyễn Đức Quyền) 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvantap2-VietBac.pdf