Chủ đề Tư liệu văn học

Chủ đề Tư liệu văn học

A. TƯ LIỆU VĂN HỌC

§1. NHẬT KÝ TRONG TÙ – Hồ Chí Minh

* Lời bình:

­ “Ở Bác, tấm lòng yêu đời cơ hồ như không có sức gì dập tắt nổi. Sáng tinh mơ đã

phải lên đường theo chân bọn lính, thế mà Bác vẫn tìm thấy một nguồn cảm hứng lớn khiến

cảnh bình minh trong một ngày bỗng có cái khí thế của cảnh bình minh chung cho một thời đại”.

(Hoài Thanh)

­ Nhưng trùm lên tất cả, “tự do” đã trở thành ý chí, nghị lực, ước ao và hi vọng để Hồ

Chí Minh vượt qua những tháng ngày đằng đẵng trong nhà ngục tăm tối, giành lại quyền

sống đích thực cho mình.

 Muốn “tinh thần ở ngoài lao” thì phải vượt được những bó buộc rất cụ thể ở trong tù,

phải có những cuộc “vượt ngục”, đến nỗi có lúc Bác quên cả nhà tù, coi nhà tù như không,

mình là người tự do:

pdf 10 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1523Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chủ đề Tư liệu văn học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chủ đề: TƯ LIỆU VĂN HỌC 
A. TƯ LIỆU VĂN HỌC 
§1. NHẬT KÝ TRONG TÙ – Hồ Chí Minh 
 * Lời bình: 
 “Ở Bác, tấm lòng yêu đời cơ hồ như không có sức gì dập tắt nổi. Sáng tinh mơ đã 
phải lên đường theo chân bọn lính, thế mà Bác vẫn tìm thấy một nguồn cảm hứng lớn khiến 
cảnh bình minh trong một ngày bỗng có cái khí thế của cảnh bình minh chung cho một thời 
đại”. 
(Hoài Thanh) 
 Nhưng trùm lên tất cả, “tự do” đã trở thành ý chí, nghị lực, ước ao và hi vọng để Hồ 
Chí Minh vượt qua những tháng ngày đằng đẵng trong nhà ngục tăm tối, giành lại quyền 
sống đích thực cho mình. 
 Muốn “tinh thần ở ngoài lao” thì phải vượt được những bó buộc rất cụ thể ở trong tù, 
phải có những cuộc “vượt ngục”, đến nỗi có lúc Bác quên cả nhà tù, coi nhà tù như không, 
mình là người tự do: 
Còn lại trong tù khách tự do 
 Hành động ngắm trăng chính là hành động “vượt ngục”. Với một tâm hồn biết 
thưởng thức trăng trong một hoàn cảnh như thế thì nhà tù nào cũng bất lực. 
(Vũ Quần Phương) 
 Căn cứ vào cách viết, trong bài Giải đi sớm có một sự hoà hợp kì diệu giữa bút 
pháp tượng trưng với bút pháp hiện thực. Tiếng gà cầm canh, trăng sao trên rặng núi, người 
tù bị giải giữa lúc đêm khuya, gió rét táp vào mặt Người rồi đến ánh sáng ban mai, hơi ấm 
tràn lan khắp mặt đất; đó là sự thực. Nhưng cũng là những tượng trưng rất đẹp và rất hào 
hùng. Cả tạo vật đang hoạt động dưới bước chân và trong tâm hồn của người chiến sĩ 
đường khổ ải của người tù là đường đấu tranh của người chiến sĩ và gió thu cũng chính là 
những đợt thử thách gian lao; thế rồi cả một phương đông sáng rực, màu trắng biến thành 
màu đỏ, cách mạng thắng lợi đang quét sạch những tàn dư của bóng tối ban đêm.Và trời 
đất là cả một hơi ấm để đưa con người tới mục đích thắng lợi và tới cõi thơ. 
(Theo Đặng Thai Mai) 
§2. TÂY TIẾN – Quang Dũng 
* Lời bình và tư liệu 
“Mở đầu bài thơ là một nỗi nhớ da diết, trang trải cả một không gian, thời gian mênh 
mang: 
Sông Mã xa rồi trong đêm hơi 
Rồi cứ thế nỗi nhớ đồng đội ấy lan toả, thấm đượm nồng nàn trên từng câu thơ, khổ 
thơ. Có thể nói toàn bộ bài thơ được xây dựng trên cảm hứng thương nhớ triền miên với bao 
kỷ niệm chồng chất, ào ạt xô tới. Vì yêu vì nhớ mà những gì nhỏ bé đơn sơ nhất trong cuộc 
sống đời lính thường ngày cũng hóa thành gần gũi, ấm lòng. 
 1
 Con người và cảnh vật rừng núi miền Tây Tổ quốc được Quang Dũng tái hiện ở 
một khoảng cách xa lạ hư ảo với kích thước có phần phóng đại khác thường. Từng mảng 
hình khối, đường nét, màu sắc chuyển đổi rất mau, bất ngờ trong một khung cảnh núi rừng 
bao la, hùng vĩ như một bức tranh hoành tráng. 
Trong Tây Tiến hiện lên khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, kì vĩ với đủ cả núi cao, 
vực thẳm dốc đứng, thác gầm cùng cồn mây heo hút, dòng lũ hoa trôi với khói lên, sương 
lấp, mưa xa khơi Hình ảnh những người lính Tây Tiến qua nét vẽ Quang Dũng cũng thật 
khác thường 
Có thể nói Tây Tiến – đó chính là tượng đài bằng thơ bất tử mà nhà thơ với cả tấm 
chân tình đã dựng nên để tưởng niệm những người chiến sĩ vô danh đã hi sinh vì nước, cũng 
là để tưởng niệm cả một thế hệ thanh niên ưu tú của dân tộc sau Cách mạng tháng Tám đã 
hăm hở ra đi giữ nước và nhiều người đã không trở về ! 
(Theo Phong Lan) 
Lời kể của Quang Dũng : 
Đầu năm 1947, đã thành lập trung đoàn Tây Tiến đầu tiên, gồm các chiến sĩ tình 
nguyện của khu III, khu IV và tự vệ thành Hà Nội trước thuộc trung đoàn Thủ đô Nhiệm 
vụ của chúng tôi là mở đường, qua đất Tây Bắc Chúng tôi xuất phát từ Sơn Tây. Lúc đầu 
rất đàng hoàng. Đi bằng ô tô Sau chúng tôi chuyển sang hành quân bằng đôi chân, thực 
sự nếm mùi Tây Tiến, mở rừng, ăn rừng, ngủ rừng. Những cái dốc thăm thẳm “`heo hút cồn 
mây súng ngửi trời”, những chiều “ oai linh thác gầm thét”, những đêm “ Mường hịch cọp 
trêu người”, rồi rải rác biên cương những nấm “ mồ viễn xứ”  tôi mô tả trong bài thơ Tây 
Tiến là rất thực, có pha âm hưởng Nhớ rừng của Thế Lữ và vô tình sau này tôi mới nhận ra. 
Trong bài thơ Tây Tiến, tôi còn viết “ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Hồi ấy trong 
đoàn chúng tôi rất nhiều người sốt rét trọc cả đầu 
Tôi muốn gợi thêm một ý của bài thơ Tây Tiến để nói lên cái gian khổ, thiếu thốn 
của miền Tây. Ngay cả khi nằm xuống, nhiều tử sĩ cũng không đủ manh chiếu liệm. Nói “áo 
bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi mượn cách nói ước lệ của thơ trước 
đây để an ủi những đồng chí của mình đã ngã xuống. 
Bài thơ Tây Tiến tôi làm khi về dự Đại hội toàn quân ở liên khu III, làng Phù Lưu 
Chanh (tên một tổng của Hà Nam thời Pháp). Tôi làm bài thơ rất nhanh. Làm xong đọc 
trước đại đội, được mọi người hoan nghênh nhiệt liệt Hồi đó, tấm lòng và cảm xúc của 
mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả có chút lý luận gì về thơ cả. Dẫu sao bài thơ Tây Tiến có 
cái hào khí một thời lãng mạn gắn với lịch sử kháng chiến anh dũng của dân tộc. 
( Vũ Văn Sĩ ghi – Văn nghệ Quân đội ) 
§3. BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG – Hoàng cầm 
* Lời tự bạch “Tôi viết Bên kia sông Đuống” 
Đêm nay, trên cái đất Thái Nguyên còn xa lạ này, tôi bồn chồn nhớ vợ con Tôi 
đang lan man nhớ nhà, nhớ cái làng Lạc Thổ cổ kính của tôi, cả cái xóm Đông Hồ với 
những cô gái quết từng lớp điệp trắng ngà lên giấy làng Bưởi để in tranh gà lợn; nhớ nhiều 
nữa, loáng thoáng mà ngậm ngùi Thì được mời sang nghe báo cáo về chiến sự vùng 
quê Ở đâu, nơi nào địch bắt đi bao nhiêu phụ nữ, thanh niên. Nơi nào, dân bị tàn sát nhiều 
ít, ngôi chùa nào bị đại bác phá sập, ngôi đình nào chúng lập sở chỉ huy Tôi càng nghe, 
bụng dạ càng cồn cào xao động. Có lúc hình như tôi bật khóc, có lúc ngồi nghe mà cứ run 
run lên vì căm giận và thương cảm. 
 2
Lúc tôi về đến nhà, trời đã khuya lắm Tôi cuống quít hấp tấp dưới ánh sáng chập 
chờn lung lay của ngọn đèn dầu sở. Hình như bao nhiêu nỗi niềm ngổn ngang, xót xa, thổn 
thức, bao nhiêu tiếng hát buồn lời ru con não ruột, những tiếc hận, thương nhớ cứ cuồn cuộn 
tuôn trào ra..Trong khoảnh khắc dào dạt ấy tôi không bố cục gì, không định ý, không cấu 
tứ gì cả, đến từ ngữ cũng tự nhiên bật ra theo dòng chảy của cảm xúc. 
Bài thơ, đúng là một bài thơ tự nhiên, không vào một “thi pháp” nào như tôi đã kể ở 
trên, nên cũng thật sự là có vẻ lòng thòng, tự sự dây cà ra dây muống. 
(Hoàng Cầm – Báo văn nghệ) 
§4. ĐẤT NƯỚC – Nguyễn Đình Thi 
* Lời bình: 
 Ở bài Đất nước, chúng ta nên đi sâu hơn vào những mảng tâm trạng của tác giả. 
Mảng đầu tiên là những gợi nhớ về Hà Nội, gợi nhớ bắt đầu từ thời tiết” Sáng mát trong 
như sáng năm xưa”. Sáng năm xưa ấy là ở Hà Nội, chớm lạnh, đầy hương cốm mới, phố 
phường như dài ra trong hơi gió heo may xao xác. Những chi tiết khởi gợi của gió đầu mùa 
có cái gì rất nhớ nhung, rất xa vắng 
 Mảng tâm trạng thứ hai: Tâm trạng trước hiện thực ở Việt Bắc. Giọng thơ vui, câu 
thơ ngắn như tiếng reo, có cái phấn chấn hồ hởi, gợi lên một không gian rộng, mới mẻ nhiều 
hoạt động không khí thu trong biếc nên các âm thanh trở nên vang vọng ngân nga, tiếng 
nói cười trở nên thiết tha khác lạ. 
(Vũ Quần Phương) 
 Nguyễn Đình Thi với bài thơ Đất nước (trò chuyện với nhà thơ). Khi bài Đất 
nước của Nguyễn Đình Thi ra đời, trong giới thơ có nhiều ý kiến khác nhau. Phải chăng Đất 
nước được sáng tác không theo phương pháp cổ điển truyền thống, mà cũng không theo 
phong cách thơ mới. Phải chăng nó phóng túng quá mà trở nên xa lạ Nguyễn Đình Thi 
không chịu bó mình trong khuôn phép cũ, anh muốn tìm một cách thể hiện mới, anh muốn 
thơ phải gợi được nhiều cách cảm thụ khác nhau. 
Nguyễn Đình Thi thai nghén Đất nước từ những năm đầu kháng chiến cùng với những 
ca khúc Diệt phát xít, Người Hà Nội, nhưng hai ca khúc thì được sáng tác ngay, còn bài thơ 
mãi đến năm 1955, hòa bình lập lại, mới ra đời. 
 Nguyễn Đình Thi sôi nổi giải thích: Anh đã viết với một tình yêu say đắm cái vẻ 
đẹp hùng vĩ và rất thơ mộng của đất trời Việt Nam. Không chỉ thế, anh còn viết với cả 
những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi ấu thơ và cả một thời trai trẻ mê say nồng nhiệt. Anh nhớ lại 
năm 13,14 tuổi, cậu thiếu niên học sinh Hà Nội Nguyễn Đình Thi đã nhiều lần nằm dưới 
gốc cây bên Hồ Tây ngửa mặt ngắm trời xanh hàng buổi không chán với biết bao khát vọng 
đẹp đẽ. Rồi những buổi mê mải chơi bên bờ sông Hồng, ngụp lặn giữa sông mát lạnh nặng 
phù sa. Và những năm kháng chiến gian khổ, gắn bó với núi rừng Việt Bắc, và xa hơn nữa, 
còn có cả sự gắn bó với một miền rừng núi biên giới Lào – Thái Lan, nơi anh sinh ra và 
sống ở đó đến năm, sáu tuổi. 
 Với lời bình, “ kĩ thuật phối âm mới lạ, cái hay của Nguyễn Đình Thi là tổng hợp 
được các tiết điệu khác nhau và phân phối các âm bằng trắc một cách sáng tạo”, anh Thi cho 
đây là một nhận xét tinh. 
(Theo Đào Khương) 
 3
§5. VIỆT BẮC – Tố Hữu 
 - Nhà thơ chào Việt Bắc trước khi về xuôi. Anh gọi Việt Bắc là mình, như một 
người yêu, hay đúng hơn, như một người bạn đời đã cùng nhau gánh vác nhiều khó nhọc, 
chia sẻ nhiều vui buồn, nhiều tình và nhất là nhiều nghĩa với nhau. Cái nghĩa ấy từ những 
ngày còn gian khổ nhất của mười mấy năm trước khi lực lượng cách mạng mới nhóm lên 
giữa rừng thiêng, những ngày chiến khu Việt Minh, “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng 
vai”.Những người dân Việt Bắc cực khổ là những người trung thành nhất với cách mạng 
Giữa đời sống gian khổ, cái tình nghĩa cách mạng là ấm áp nhất, đẹp nhất. Cái nghĩa tình từ 
thuở đầu cách mạng ấy càng sâu sắc hơn trong kháng chiến. Những người dân Việt Bắc 
sống vẫn chật vật vô cùng giữa thiên nhiên lộng lẫy mà gay gắt. Nhà thơ nhìn thấm thía vào 
cái anh dũng thầm lặng hàng ngày của quần chúng lao động. 
Thương nhau chia củ sắn lùi 
 Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô 
 Và nụ cười thương yêu của nhà thơ bỗng gặp hình ảnh cô em gái hái măng một mình 
như làm sáng cả rừng núi. 
  Khi Tố Hữu làm thơ về những phiên họp của Chính phủ, câu thơ trang trọng và 
sang sảng, đầy ánh sáng của buổi trưa rực rỡ trong tâm hồn nhà thơ. Ánh sáng ấy dẫn đến 
một đoạn kết, mà có lẽ là cái nút động của cả bài thơ khi nhìn về “mười lăm năm ấy”: 
Ở đâu u ám quân thù 
Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi 
 Quê hương cách mạng dựng nên Cộng Hòa 
(Theo Nguyễn Đình Thi) 
Mình đi mình có nhớ chăng 
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? 
  Linh hồn của câu đọng ở ba chữ mình. Hai chữ mình trước ngôi thứ hai đã đành, 
chữ mình sau cũng là ngôi thứ hai. Lạ nhất là đại từ mình ngôi thứ hai này. Trong ca dao 
không gặp kiểu đại từ đổi ngôi như vậy. Câu thơ vốn có gốc rễ sâu xa trong ca dao của dân 
tộc bỗng vụt lớn lên, mới mẻ, hiện đại. Nói nôm na ra là anh đi anh có nhớ anh không?... 
Câu hỏi thật sâu nặng nghe mà giật mình. Ca dao chỉ đòi nhớ em thôi. Vậy mà Tố Hữu đã 
thêm hương thêm sắc cho chữ tình. Và chủ đề sâu sắc của bài thơ lộ ra một cách kín đáo, 
chứ không đợi đến những câu ướm hỏi dè chừng sau này. 
(Theo Nguyễn Đức Quyền) 
§6. KÍNH GỬI CỤ NGUYỄN DU – Tố Hữu 
 Sinh thời Nguyễn Du từng tự hỏi không biết ba trăm năm sau có ai người tri kỉ vì 
mình mà nhỏ nước mắt không. Từ đó đến nay chưa đến ba trăm năm. Nhưng những người 
có thể gọi là tri kỉ của nhà thơ, những người hiểu rõ những đau xót, căm giận, ước mơ và cả 
những băn khoăn ... ) còn nước mắt nó trào vỡ ra từ cuộc sống 
đắng cay, khốn khổ (7 trang sau). Đó là nguyên nhân để giải thích kết cấu câu chuyện mất 
thăng bằng, một đầu là nụ cười và một đầu là tiếng khóc. 
 Chính kết cấu này mà phần đầu nó “lãng mạn” bởi quan hệ lứa đôi chi phối. Tràng 
thường nhìn, hoặc đối thoại, hoặc say mê với duyên mới mà “tủm tỉm cười” như để nhấm 
nháp hạnh phúc của mình. 
 (Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả đói 
khát đang đe dọa, quên cả những ngày tháng trước mặt chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và 
một người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lẫm, chưa thấy ở người đàn ông nghèo khổ 
ấy, nó ôm ấp, mơn man) (tr. 170) 
 Còn phần sau tiếng cười ít hơn bởi nhân vật chính là bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ với nỗi 
lòng nặng trĩu ưu tư và ngấn nước mắt đã làm cho hiện thực trở lại với thực tế hơn. Không 
khí câu chuyện thật nặng nề ám ảnh (“tiếng ai hờ khóc” và trong đêm hợp cẩn “tiếng hờ 
khóc tỉ tê càng nghe rõ”mùi đống rấm). Những lo toan của người mẹ đã mở ra một tương 
lai thật ảm đạm. 
 Tuy xuất hiện rất ít trong bảy trang sau (4 lần) nhưng tiếng cười vẫn được cất lên. 
Chính lòng nhân ái, cưu mang nhau, chính niềm tin vào những ước mơ rất bình dị của người 
lao động đã làm cho câu chuyện hừng lên một chút ánh sáng của hi vọng “may mà qua được 
cái thời tao đoạn này yên bề “rồi con cái về sau” hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ 
cái” (tr.175 và 177). Câu chuyện cũng đã hừng lên một chút ánh sáng của bình minh ở 
câu kết thúc: 
“Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới” 
§8. VỢ CHỒNG A PHỦ – Tô Hoài 
* Lời bình và tư liệu 
 Ở Vợ chồng A Phủ nhà văn đã dụng công và thành công trong miêu tả, trong 
dựng cảnh. Nói cách khác, ông đã thường dựng lên cho bạn đọc thấy được diễn biến tâm lí 
cùng đời sống nội tâm của nhân vật qua hàng loạt chi tiết bên ngoài như một dáng ngồi, một 
cách ăn mặc, một vài câu nói, một cái nhìn, một bước đi.. đến một tảng đá hay một ô cửa 
 6
sổ khi miêu tả như thế, do đã được nhập vào với số phận của nhân vật, thuộc được hoàn 
cảnh sống đầy biến động và đổi thay của nhân vật, nhà văn đã định ra được một cách tự 
nhiên một mạch lời kể chuyện vừa phù hợp với tâm lý riêng của họ, vừa mang sự gãy gọn 
của ngôn ngữ văn xuôi hiện đại. 
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn hay viết về một sự đổi đời kì diệu. Như nhiều truyện 
ngắn có chung tư tưởng chủ đề này. Vợ chồng A Phủ cũng có cấu trúc chia đôi rất rõ: 
 1/ Những ngày ở Hồng Ngài: Mị và A Phủ là người – người xinh tươi, khỏe mạnh, 
giỏi giang – mà phải sống kiếp nô lệ trâu ngựa khốn khổ ê chề. 
 2/ Những ngày ở Phiềng Sa: Mị và A Phủ là người sống tự do và đã biết bảo vệ lấy 
tự do ấy. Tuy nhiên cái hay của truyện là ở chỗ: nhà văn đã chỉ trong chừng 400 chữ, mà 
dựng lại được một chặng then chốt của toàn bộ sự chuyển hóa ấy, khiến cho bạn đọc dẫu 
khó tính cũng phải nhận rằng: Việc Mị và A Phủ từ đêm đen nô lệ ra vùng ánh sáng tự do là 
hoàn toàn hợp lý, hợp lẽ tự nhiên Như vậy là chính lòng thương người và thương thân đã 
chiến thắng nỗi sợ hãi, đã quyết định hành động tự giải thoát . 
(Nguyễn Quốc Luân) 
 Lời nhà văn viết Truyện Tây Bắc: Năm 1952, tôi theo bộ đội chủ lực, tiến 
quân vào miền Tây, tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc Cái kết quả lớn nhất và trước 
nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ 
cho tôi nhiều, không bao giờ quên. 
Ý bao quát trong khi tôi viết Truyện Tây Bắc là: Nông dân các dân tộc ở Tây Bắc bao 
năm gian khổ chống đế quốc và bọn chúa đất. Cuộc đấu tranh giai cấp, riêng ở Tây Bắc, 
mang một sắc thái đặc biệt. Nhìn lướt qua, nơi thế lực phong kiến còn đương kéo lùi đất 
nước lại hàng trăm năm trước, chúng ta dễ tưởng những cảnh những người ở đấy cứ muôn 
thuở lặng lẽ. Không, ở nơi rừng núi mơ màng ấy, các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng. 
Họ đã thức tỉnh. Cán bộ của Đảng tới đâu thì các dân tộc đứng lên tới đấy, trước nhất là 
những người trẻ tuổi. Họ thật đẹp và yêu đời. 
Một vấn đề khác, đó là những ý thơ trong văn xuôi. Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất cả 
miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người bay bổng 
hơn lên. 
(Tô Hoài) 
§9. RỪNG XÀ NU – Nguyễn Trung Thành 
* Lời bình và tư liệu 
 Chính cái khả năng đúc kết đã làm cho Nguyễn Trung Thành, trong phạm vi 
ngắn gọn của một truyện ngắn, có thể dựng lại một quá trình cuộc sống trong những mảng 
đậm nhất, gây xúc động nhiều nhất. 
(Phong Lê) 
 Truyện ngắn đó của Nguyễn Trung Thành, Rừng xà nu, tôi đọc từ ngày nó 
mới in ra lần đầu, khoảng cũng mười năm rồi. Về sau nghĩ lại, thấy hiện lên rõ nhất là hình 
ảnh tay Tnú và những trang mở đầu cùng đoạn kết diễn tả cây xà nu. Cái cây và bàn tay, đó 
là hai điểm tựa cho việc nhớ lại tất cả câu chuyện kể, là hai điểm sáng lớn thu hút các điểm 
sáng nhỏ nhấp nháy trong óc tôi liên tưởng. 
 7
 “Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú”. Nhưng mười ngọn đuốc thịt da đó đã kịp 
làm mồi châm lửa nổi dậy. Sau tiếng thét của Tnú, dân làng bộc phát giết sạch mười tên 
giặc. 
(Nhị Ca) 
 Trở lại Tây Nguyên, với Nguyên Ngọc, bao điều gợi nhớ. Mười bảy tuổi, vào 
bộ đội, anh hăm hở lên Tây Nguyên đánh Pháp (ngày ấy, khu 5 Pháp mới chỉ chiếm được 
Tây Nguyên) với tâm trạng vừa hăng hái yêu nước vừa có chút lãng mạn tiểu tư sản Anh 
không lường được hết cái khắc nghiệt của Tây Nguyên: Đồng bào sống còn hoang sơ, ta 
chưa có một cơ sở nào. Giặc Pháp thì vừa xuyên tạc vừa treo giải ai bắt được bộ đội Kinh, 
hoặc chặt đầu đem nộp thì được thưởng muối. Anh phải trốn biệt trong rừng, trên nương, 
học tiếng dân tộc Sáu tháng ròng rã, anh mới giác ngộ được một bà cụ Anh thấy đồng 
bào Tây Nguyên có đời sống tinh thần phong phú, họ rất yêu tự do, trọng danh dự. 
(Theo Đào Khương) 
* Lời nhà văn: 
 Hồi tháng 5 năm 1962, hành quân từ miền Bắc vào, tôi cùng đi với anh Nguyễn 
Thi Cũng đi dọc Trường Sơn từ Bắc vào đến điểm chia tay mỗi người về chiến trường 
của mình là khu rừng bát ngát phía Tây Thừa Thiên giáp Lào. Đó là một khu rừng xà nu tít 
tắp tận chân trời. 
 Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ ngày đó. Ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, 
man dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi 
mênh mông, tưởng như đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây, hàng vạn, 
hàng triệu cây vô tận. Không khí ở đây thơm lừng 
 Tại sao cái đêm giữa năm 1965 ấy, ngồi viết, rừng xà nu lại bỗng đột ngột đến với 
tôi, chảy ngay ra dưới ngòi bút tôi? 
 Như vậy đấy, rừng xà nu chợt đến. Và lập tức tôi biết tôi đã tạo được không khí, đã 
có không gian ba chiều rồi. Và cũng lập tức đã nhập được vào không khí và không gian ấy. 
  Một truyện ngắn sở dĩ có thể ngắn được là vì sự “chuẩn bị” cho nó phải thật dài. 
(Nguyên Ngọc) 
§10. MÙA LẠC – Nguyễn Khải 
 1/ Bằng cảm hứng thế sự – đạo đức, Nguyễn Khải đã kể lại con đường đi của nữ 
nhân vật chính. Từ một số phận đầy éo le đau khổ, Đào đã tìm thấy hạnh phúc mới trên 
nông trường Điện Biên nhờ vào chính khát vọng và niềm tin yêu cuộc sống của chị. Nhưng 
quan trọng hơn là chị đã sống trong môi trường tập thể có những con người biết chia sẻ ngọt 
bùi; biết quan tâm và tạo điều kiện cho chị tìm được chỗ đứng chân chính để thay đổi cuộc 
đời mình. 
 2/ Trong thời kỳ 1955-1964, nhiều tác phẩm đã bám rất sát các phong trào để phản 
ánh kịp thời các chủ trương chính sách phục vụ cho công cuộc xây dựng CNXH ở miền 
Bắc. Khác với những tác phẩm đó, “Mùa lạc” lại khai thác vấn đề lối sống, đạo đức, mối 
quan hệ của con người và con người trong cuộc sống mới. Nguyễn Khải có đề cập tới hiện 
thực và những chủ trương chính sách của một thời kỳ nhưng trung tâm sự chú ý của ông vẫn 
là vấn đề số phận con người. 
 Nhân vật Đào là nhân vật có cá tính, có số phận được xây dựng khá thành công 
trong “Mùa lạc”. Tác giả đã giới thiệu ngoại hình, đã cho ta thấy lai lịch và số phận cũng 
 8
như cho thấy sự chuyển biến trong tâm lí và trong tính cách của Đào từ khi lên nông trường 
Điện Biên 
§11. ĐẤT NƯỚC – Nguyễn Khoa Điềm 
* Lời bình: 
 Chương Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm là 
suy nghĩ và xúc cảm về đất nước dân tộc của cả một thế hệ tuổi trẻ đang đánh Mĩ. Những 
dòng thơ là dòng cuồn cuộn của tình cảm, cũng là tiếng nói đầy trách nhiệm của tuổi trẻ 
trước các thế hệ cha ông đã kế tiếp nhau lấy xương máu mình đóng kè giữ lấy núi sông Tổ 
quốc. 
  Tổ quốc được khám phá, nhìn nhận lại trong chiều sâu lịch sử. 
  Cảm xúc trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không nhẹ nhàng dễ dãi; đó là cảm xúc 
của lớp trẻ đã thấy nhiều, nghĩ nhiều và cả từng trải nhiều nữa để rồi không còn có thể vô tư 
giản đơn 
 Câu thơ Nguyễn Khoa Điềm thường không câu nệ vào thể thơ và khuôn khổ câu 
chữ; anh viết phóng khoáng tự nhiên theo mạch tình cảm, mạch suy nghĩ Ở những bài thơ 
dài, người ta thấy anh dàn trải – đôi khi rắc rối – khi anh muốn nói cho thật thấu đáo. (Theo 
Vũ Tuấn Anh) 
§12. SÓNG – Xuân Quỳnh 
* Lời bình 
 Xuân Quỳnh khi yêu, rất nồng nàn và rất thật. Trước nay có lẽ chưa có người con 
gái làm thơ nào đã nói lên những lời yêu cháy bỏng, thật và dữ dội như chị – đó chính là nét 
hiện đại của tâm hồn chị, tâm hồn người phụ nữ thế kỷ XX, dám yêu và dám thổ lộ tất cả 
 Tình yêu là sóng – sóng ngầm và sóng trên mặt nước, dữ đội và dịu êm, xa tít và gần 
gũi, và chỉ có nó, cái đại dương mênh mông ấy, mới có thể sánh được với nỗi khát vọng của 
lòng yêu. 
  Người con gái ấy không có ý định làm một cuộc cách tân thơ, cũng không có ý 
định trau chuốt nghệ thuật thơ mình, nhưng chị đi trên con đường lớn của thơ, con đường đi 
từ trái tim và ở lại giữa những trái tim người đời. 
(Mai Quốc Liên) 
  Xuân Quỳnh từ con người có nhu cầu tự ca hát vè tình yêu và cuộc săn 
đuổi hạnh phúc của mình thành một nhà thơ viết về tình yêu vào loại phong phú nhất trong 
số các nhà thơ cùng thế hệ. 
Gần như chị trở thành nhân vật văn học của chính thơ chị Vẫn chỉ là mình và người 
mình yêu đấy thôi, nhưng đó đã như là mơ ước của mình về mình và cho mình. 
(Lại Nguyên Ân) 
 Sóng là nơi tập trung nhiều đặc điểm của thơ Xuân Quỳnh. Tình yêu trong 
thơ Xuân Quỳnh không còn dừng ở mức độ tình yêu buổi đầu đơn giản hò hẹn, non nớt, 
ngọt ngào mà là tình yêu – hạnh phúc, tình yêu với cuộc sống chung, với nhiều đòi hỏi ở 
chiều sâu của tình cảm, với nhiều minh chứng của thử thách 
 9
Cấu trúc của bài thơ Sóng được xác lập theo cách đan xen hình tượng; Sóng – bờ (hai 
khổ đầu), sau đó em – anh (khổ thứ ba, thứ tư), rồi lại sóng – bờ (khổ thứ năm), tiếp đến em 
- anh (khổ thứ sáu). Rồi lại sóng – bờ (khổ thứ bảy) và sau lớp lớp sóng đan xen tới lui như 
vậy, biển lặng dần đi, nhường chỗ cho suy tư xa rộng về cuộc đời, năm tháng, về các quy 
luật vĩnh hằng của tự nhiên: 
Cuộc đời tuy dài thế 
Năm tháng vẫn đi qua 
Như biển kia dẫu rộng 
Mây vẫn bay về xa 
 Để rồi đến ngay khổ thơ kết thúc, hai cặp hình tượng sóng – bờ và em – anh giao 
kết, ở đó tình yêu của thiên nhiên, tình yêu của con người, tình yêu giữa thiên nhiên và con 
người xuyên thấu vào nhau 
(Phạm Đình An) 
* * * 
 10

Tài liệu đính kèm:

  • pdfBinh van THPT.pdf