Bài dự thi “Tìm hiểu 80 năm truyền thống ngành xây dựng Đảng”

Bài dự thi “Tìm hiểu 80 năm truyền thống ngành xây dựng Đảng”

Câu hỏi 1: Hãy nêu những mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự trường thành và phát triển của Ngành Tổ chức xây dựng Đảng từ ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay?

 Trả lời:

Ngày 3 - 2 - 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử của cách mạng Việt Nam, mở đầu truyền thống vẻ vang của Đảng, đồng thời cũng mở đầu cho sự hình thành và phát triển của công tác tổ chức xây dựng Đảng.

 

doc 29 trang Người đăng hien301 Lượt xem 1921Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài dự thi “Tìm hiểu 80 năm truyền thống ngành xây dựng Đảng”", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI DỰ THI “TÌM HIỂU 80 NĂM TRUYỀN THỐNG NGÀNH XÂY DỰNG ĐẢNG”
Câu hỏi 1: Hãy nêu những mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự trường thành và phát triển của Ngành Tổ chức xây dựng Đảng từ ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay?
 Trả lời:
Ngày 3 - 2 - 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử của cách mạng Việt Nam, mở đầu truyền thống vẻ vang của Đảng, đồng thời cũng mở đầu cho sự hình thành và phát triển của công tác tổ chức xây dựng Đảng.
Ngày 14 tháng 10 đến cuối tháng 10 năm 1930, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng đã được tiến hành ở Hương Cảng, Trung Quốc. Hội nghị thông qua Luận cương chính trị của Đảng do đồng chí Trần Phú khởi thảo; các án nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, về vận động các giới quần chúng; đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương; bầu đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và những chiến sỹ cộng sản lúc đó vừa là những nhà lãnh đạo cách mạng, vừa là những cán bộ tổ chức đầu tiên của Đảng, đặt nền móng cho công tác xây dựng Đảng, để các thế hệ chiến sỹ cách mạng nối tiếp tiến hành phát triển và từng bước hoàn thiện đường lối cách mạng Việt Nam, hoàn thiện đường lối và phương pháp công tác tổ chức của Đảng, xây dựng Đảng ta không ngừng lớn mạnh.
1. Công tác tồ chức xây dựng đảng trong thời kỳ Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng lực lượng cách mạng và đấu tranh giành chính quyền 1930-1945.
a. Giai đoạn 1930-1935: Sau khi thành lập, Đảng đã phát động cao trào cách mạng 1930-1931. Địch khủng bố trắng, Đảng lãnh đạo khôi phục phong trào. Công tác tổ chức xây dựng đảng trong năm 1930 và năm 1931 là thông qua công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia các phong trào đấu tranh với các hình thức và khẩu hiệu khác nhau để lựa chọn những người ưu tú kết nạp đảng viên; xây dựng, củng cố các tổ chức của Đảng. Khi mới thành lập, Đảng mới có 50 chi bộ với hơn 200 đảng viên, đến tháng 4 năm 1931 đã có 250 chi bộ với hơn 2.400 đảng viên. Các tổ chức quần chúng cách mạng (Công hội, Nông hội, Phụ nữ liên hiệp hội, Hội cứu tế Đỏ...) do Đảng lãnh đạo cũng lần lượt ra đời. Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương được thành lập ngày 26-3-1931.
* Đại hội đại biểu lần thứ 1 của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935 đã đề ra nhiệm vụ chính trị của Đảng lúc này là: thu phục quảng đại quần chúng lao động, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc; khôi phục lại hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở; thống nhất lãnh đạo, chuẩn bị cho cánh mạng Đông Dương chuyền sang giai đoạn mới.
b. Giai đoạn 1936-1939: Đảng lãnh đạo cuộc vận động dân chủ, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, chống đế quốc chiến tranh, đòi tự do cơm áo, hòa bình.
Các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3 và tháng 9-1937 tập trung rút kinh nghiệm về công tác tổ chức của Đảng. Ngày 26-3-1937, Ban Chấp hành Trung ương công bố cuốn sách về "Chủ trương tổ chức mới của Đảng" với tư tưởng chủ đạo là: "Hoàn cảnh mới, nhiệm vụ mới bắt buộc Đảng ta phải có con đường chính trị mới, con đường chính trị mới lại bắt buộc phải có một đường lối tổ chức mới".
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11-1939), do đồng chí Nguyễn Văn Cừ chủ trì, đã nhấn mạnh mục tiêu chuyển hướng chiến lược "Đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến thối nát, giải phóng các dân tộc Đông Dương" và quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
Qua cao trào dân chủ 1936-1939, uy tín của Đảng được tăng cường, công tác tổ chức của Đảng trưởng thành thêm một bước.
c. Giai đoạn 1940-1945: Đảng trực tiếp lãnh đạo chuẩn bị khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Từ tháng 9 năm 1940, Nhật chiếm Đông Dương; Nhật Pháp cấu kết với nhau đàn áp cách mạng nước ta. Trước tình hình đó, Trung ương chủ trương chuyển các tổ chức đảng vào hoạt động bí mật một cách nhanh chóng, triệt để.
Tháng 2-1941 , đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa I tại Pắc Pó, Cao Bằng vào tháng 5-1941.
Ngày 1-12-1941, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về công tác tổ chức của Đảng, nêu phương châm công tác tổ chức lúc bấy giờ là: “rộng rãi, thực tế, khoa học" và phải tập trung hoàn thành tốt những nhiệm vụ chủ yếu.
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay ra đời ngày 22 tháng 12 năm 1944.
Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, Tuyên Quang, nhận định cơ hội cho nhân dân ta giành chính quyền đã tới, nêu chủ trương kịp thời lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa, quyết định lập ủy ban khởi nghĩa toàn quốc.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đồng Nam Á là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; của đường lối độc lập tự chủ đầy sáng tạo của Đảng về cách mạng Việt Nam; đồng thời, cũng là thành tựu rất to lớn về công tác tổ chức của Đảng và về tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong mười lăm năm (1930-1945), Đảng ra đời và từng bước vượt qua nhiều khó khăn, thử thách. Công tác tổ chức của Đảng đã có bước phát triển lớn, tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu về xây dựng đảng và tổ chức, vận động quần chúng tham gia các phong trào cách mạng, với nhiều hình thức đấu tranh sinh động.
2. Công tác tổ chức xây dựng Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến cuộc kháng chiến toàn quốc mở đầu vào cuối năm 1946.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh của gần một triệu người, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Ngày 6-1-1946 diễn ra cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời đã phải đứng trước những thử thách: "ngàn cân treo sợi tóc".
Công tác tổ chức của Đảng trong giai đoạn này là tập trung sức tổ chức thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ mới của cách mạng trên các mặt: củng cố, xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân; tiến hành tổng tuyển cử, đồng thời tổ chức phát động phong trào cứu đói, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm và xây dựng đời sống mới; phát triển Mặt trận và các đoàn thể cứu quốc; xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang; bảo vệ và phát triển Đảng gấp rút đào tạo đội ngũ cán bộ của Đảng, chính quyền, đoàn thể và lực lượng vũ trang.
Trong những năm 1947-1954: Kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ. Công tác tổ chức của Đảng trong giai đoạn này đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng là tập trung toàn bộ công sức tiến hành hai nhiệm vụ vừa kháng chiến vừa kiến quốc với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, vì độc lập tự do. Các cơ quan Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ rời Hà Nội, lên chiến khu Việt Bắc.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI họp từ ngày 11 đến ngày 19-2- 1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Đại hội đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, đánh đuổi đế quốc xâm lược đất nước hoàn toàn độc lập và thống nhất, xóa bỏ hình thúc bóc lột phong kiến, thực hiện khẩu hiệu "người cày có ruộng". Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị; Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng; quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai và lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Nhìn chung công tác tổ chức xây dựng đảng ở giai đoạn này cùng với việc tiến hành các mặt công tác khác của Đảng và Nhà nước đã đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cuộc kháng chiến, động viên sức mạnh của toàn dân quyết một lòng hy sinh chiến đấu vì độc lập tự do, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, góp phần quan trọng vào chiến thắng trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lược. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta về kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh. Đồng thời cũng là thắng lợi của công tác tổ chức xây dựng đảng, xây dựng quân đội, xây dựng chính quyền nhân dân và xây dựng các đoàn thể quần chúng trong thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
3. Công tác tổ chức xây dựng Đảng trong thời kỳ cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1955-1975).
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, thi hành Hiệp định Giơnevơ, nước ta tạm thời bị chia làm 2 miền: miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam còn bị sự thống trị của chế độ thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Cách mạng nước ta đứng trước thời kỳ lịch sử mới đầy khó khăn và thử thách.
Tại Hội nghị lần thứ 10, họp vào tháng 9 năm 1956, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã nghiêm khắc kiểm điểm và vạch rõ: "... trong cuộc vận động này chúng ta đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trên một số vấn đề có tính chất nguyên tắc”. Đó là vi phạm đường lối giai cấp của Đảng, vận dụng máy móc kinh nghiệm của nước ngoài một cách "tả khuynh" trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức; vi phạm nặng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; rơi vào "chủ nghĩa thành phần" trong công tác phát triển đảng viên, v.v... Những sai lầm, thiếu sót đó đã làm cho lực lượng của Đảng bị suy yếu, tổn thất, uy tín của Đảng bị giảm sút.
Ba năm tiếp theo (1958-1960), công tác tổ chức tập trung phục vụ việc hoàn thành kế hoạch cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh, đưa đại bộ phận nông dân, nhũng người lao động thủ công vào các hợp tác xã, v.v...
Ở miền Nam, ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, vào tháng 10 năm 1954, Xứ ủy Nam Bộ và Khu ủy khu V được thành lập theo nghị quyết của Bộ Chính trị (tháng 9-1954). Tháng 8 năm 1956, đồng chí Lê Duẩn soạn thảo đề cương "Đường lối cách mạng miền Nam".
Trong không khí sôi sục căm thù và khí thế vùng dậy của quần chúng, trong tháng 1 và tháng 5-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có cuộc họp quan trọng tại Hà Nội (Hội nghị Trung ương 15 khóa II), ra Nghị quyết có ý nghĩa lịch sử xác định cách mạng Việt Nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược song song tiến hành, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tiến hành tại Hà Nội từ ngày 5 đến 10-9-1960, Đại hội đã vạch ra đường lối cách mạng của thời kỳ mới là: “tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà . . . ". Đại hội cũng đã tổng kết 30 năm công tác xây dựng đảng, nhấn mạnh phải tăng cường tính chất giai cấp công n ... g tầm thì việc xây dựng đường lối sẽ đúng đắn và là điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì dù đường lối chính sách đúng cũng khó có thể biến thành hiện thực được. Hồ Chủ tịch cũng đã chỉ rõ: "Khi đã có chính sách đúng thì sự thành công và thất bại của chính sách đó là do cách tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích!'(3).
2. Tiêu chuẩn cán bộ "là sự thể hiện yêu cầu về phẩm chất và năng lực để hoàn thiện nhiệm vụ, phải luôn luôn được bổ sung, cụ thể hoá phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cách mạng"(4).
Tiêu chuẩn cán bộ là vấn đề quan trọng đầu tiên của công tác cán bộ. Tiêu chuẩn cán bộ đúng đắn là cơ sở chính xác để xem xét, đánh giá, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đề bạt cán bộ. Tiêu chuẩn cán bộ phải được cụ thể hoá cho phù hợp với yêu cầu của từng thời kỳ cách mạng và tình hình của đội ngũ cán bộ.
Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ phải căn cứ vào:
- Những quan điểm, nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về cán bộ và tiêu chuẩn cán bộ;
- Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ và thực tiễn kinh tế, chính trị, xã hội, con người Việt Nam,
- Phải căn cứ vào vai trò, chức năng, nhiệm vụ của từng loại cán bộ, từng chức danh cán bộ
Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII đã đặt ra tiêu chuẩn chung của cán bộ bao gồm các nội dung cơ bản là:
- Thứ nhất, có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuỵ phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Thứ hai, Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Thứ ba, có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Đây là 3 tiêu chuẩn của người cán bộ nói chung, các tiêu chuẩn đó có quan hệ mật thiết với nhau, coi trọng cả đức và tài, đức là gốc. Ngoài ra, cần chú ý tiêu chuẩn về trình độ ngoại ngữ, luật pháp, tin học; khả năng tiếp cận, nắm bắt và xử lý những vấn đề mới; về khả năng đoàn kết, quy tụ, hội nhập; phong cách làm việc khoa học, dân chủ, sâu sát, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng có thể hiểu đó là những người làm công tác tổ chức cán bộ trong các cơ quan Đảng, trong các cấp uỷ Đảng từ Trung ương tới địa phương, trong các trường chính trị, quân sự, công an 
Người cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng cũng cần phải có những tiêu chuẩn, phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân nói chung như:
- Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
- Gương mẫu về đạo đức, lối sống. Có tác phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập hợp quần chúng, đoàn kết cán bộ.
 - Có kiến thức về khoa học lãnh đạo, quản lý. Đã học tập có hệ thống ở các trường Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân; trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả.
3 . Tuy nhiên, do tính chất công tác đặc thù nên tiêu chuẩn, phẩm chất của người cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng ngoài việc phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về tiêu chuẩn, phẩm chất nêu trên, còn phải chú ý đảm bảo một số yêu cầu đặc biệt như:
- Có hiểu biết sâu sắc và biết vận dụng sáng tạo các nguyên tắc tổ chức xây dưng Đảng, các chủ trương, chính sách của Đảng vò Nhà nước, đặc biệt về công tác cán bộ, công tác có chức, đánh giá cán bộ, đảng viên. . .
Nắm vững các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng; hiểu rõ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng nhân dân, giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội khác trong Hệ thống chính trị . . .
Nắm rõ và vận dụng một cách linh hoạt, khoa học, hợp lý những chính sách, quy trình về lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, cất nhắc, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ.
- Có khả năng đánh giá con người một cách cơ bản về phẩm chất, năng lực, trình độ, sở trường, sở đoản. Do tính chất công tác của người làm công tác tổ chức xây dựng Đảng cần phải thường xuyên nắm tình hình đội ngũ cán bộ đối với từng cá nhân; người cán bộ tổ chức cần có sự đánh giá khách quan đối với từng cá nhân về phẩm chất, năng lực, sở trường, các mặt hạn chế... Đó là một cơ sở quan trọng để đánh giá cán bộ thường xuyên, để tham mưu với cấp trên có thẩm quyền tiến hành quy hoạch, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ vào những vị trí, nhiệm vụ hợp lý, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ và phát huy được thế mạnh của từng cá nhân.
- Có tầm nhìn chiến lược, khả năng dự báo tốt. Đây là điều kiện rất cần thiết để người cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ có thể đề xuất lên cấp trên có thẩm quyền trong việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ... đảm bảo có nguồn cán bộ kế cận kịp thời và đáp ứng được các yêu cầu, nhiệm vụ mới. 
- Có khả năng tổng hợp, tham mưu, tổ chức tốt.
Người cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng có nhiệm vụ chính là tham mưu cho cấp uỷ có thẩm quyền các vấn đề về tổ chức cán bộ, do vậy, người cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng ngoài yêu cầu về kiến thức chuyên môn và thường xuyên nắm tình hình đội ngũ cán bộ và cơ cấu của tổ chức đảng, còn phải có khả năng tham mưu, tổng hợp tốt.
Công tác tham mưu của người cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng lại được tiến hành trên phương diện tổ chức cán bộ, là vấn đề con người. Đây là mặt công tác cực kỳ quan trọng và cũng hết sức phức tạp, nhạy cảm và khó khăn. Vì thế, người cán bộ công tác chuyên môn trên lĩnh vực này yêu cầu phải có khả năng tổ chức tốt, tức là có kỹ năng, kinh nghiệm về hoạt động bố trí, sắp xếp khoa học, hợp lý; có tư duy độc lập, khả năng phân tích, tổng hợp tốt, đề xuất được những phương án lựa chọn người, sắp xếp, bố trí vào những công việc hợp lý để họ có thể phát huy được phẩm chất và năng lực thực tế của họ. 
- Phải công tâm, trung thực, khách quan và dân chủ.
Như đã nói ở trên, lĩnh vực công tác tổ chức cán bộ là một công tác hết sức nhạy cảm liên quan đến lợi ích chính trị của các cá nhân. Và cũng vì thế mà công tác này rất dễ nảy sinh các vấn đề tiêu cực. Tuy nhiên, công tác tổ chức xây dựng Đảng lại được xác định là một công tác hết sức quan trọng; nếu làm tốt công tác tổ chức xây dựng Đảng sẽ góp phần tăng cường sức mạnh của từng tổ chức đảng nói riêng và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của toàn Đảng nói chung, ngược lại, nếu để xảy ra sai lầm, tiêu cực trong khi tiến hành công tác này sẽ dẫn đến những hậu quả hết sức to lớn. Chính vì vậy đòi hỏi công tác tổ chức xây dựng Đảng phải được tiến hành nghiêm túc, khoa học và hiệu quả. Muốn như vậy, đòi hỏi đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ xây dựng Đảng trong công tác phải hết sức công tâm, trung thực và khách quan.Tránh cá nhân chủ nghĩa, chủ quan hay có biểu hiện tiêu cực trong công tác.
Để đảm bảo nâng cao hiệu quả và có cơ sở vững chắc cho công tác tổ chức cán bộ, người cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng cần phải biết phát huy dân chủ, tranh thủ các ý kiến góp ý, đề xuất, từ đó tổng hợp lại và có cái nhìn tổng quát, khách quan với vấn về công tác tổ chức cán bộ, là cơ sở quan trọng để đưa ra hành động đúng.
- Am hiểu thực tế, có kiến thức và kinh nghiệm sâu về lĩnh vực tổ chức cán bộ để có thể tham mưu đúng và trúng ý của cấp uỷ, của lãnh đạo. Am hiểu thực tế là am hiểu công việc và những con người mà mình phụ trách. Tìm hiểu tính cách của một con người là một quá trình lâu dài, không thể có cách nhìn thiển cận, qua loa, bề nổi. Nếu không có kinh nghiệm sâu về lĩnh vực này rất dễ làm sai sẽ bị trả giá cho những việc mình làm.
Ngoài ra người cán bộ làm công tác xây dựng Đảng cũng cần phải biết lắng nghe những ý kiến khác nhau về xem xét, đánh giá phẩm chất, năng lực của người cán bộ biết phân biệt được những ý kiến đúng,những ý kiến sai, ghi nhận và làm theo những ý kiến đúng.Muốn vậy, người cán bộ phải có lối sống, phong cách gần gũi, thân mật với mọi người.Bởi vì làm bất kỳ công việc gì cũng rất cần hiểu quần chúng, biết lắng nghe ý kiến của quần chúng.
4. Việc xác định tiêu chuẩn của người cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ xây dựng Đảng có ý nghĩa hết sức quan trọng, cơ sở để lựa chọn, đào tạo cán bộ làm công tác xây dựng Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.
 Trải qua cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ, các cơ quan làm công tác tổ chức ở các cấp đã được xây dựng, củng cố và phát triển từng bước; các thế hệ cán bộ làm công tác tổ chức của Đảng ở các cấp đã tỏ rõ lòng trung thành với Đảng và lý tưởng cách mạng; nhiều đồng chí đã chiến đấu, hy sinh dũng cảm cống hiến cả cuộc đời cho tổ quốc thân yêu, để lại những tấm gương sang và những kinh nghiệm quý báu về công tác tổ chức cho các thế hệ cán bộ làm công tác tổ chức sau này noi theo.
Trong gian đoạn hiện nay, nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập quốc tế, chúng ta đang đứng trước những thời và cũng không ít những thách thức. Bên cạnh những thành tựu còn nảy sinh rất nhiều vấn đề tiêu cực phức tạp. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nâng lên, vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là một yêu cầu quan trọng và thiết yếu, trong đó việc đảm bảo xây dựng đội ngũ cán bộ tài năng, xây dựng hệ thống tổ chức Đảng vững mạnh là vấn đê được Đảng ta hết sức chú ý tiến hành. Chính vì thế, vấn đề xác định tiêu chuẩn, phẩm chất của người can bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng là rất quan trọng vả không ngừng hoàn thiện, bổ sung cho phù hợp.
Chúng ta phải tiếp tục và thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố các cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức của Đảng. Từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan tổ chức các cấp; tích cực đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức thực sự vững vàng về chính trị, có kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn trên nhiêu lĩnh vực nhất là về mặt công tác tổ chức, cán bộ, xây dựng cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên; có đạo đức cách mạng, công tâm, trung thực, khách quan, làm việc có hiệu quả, được các tổ chức đảng và nhân dân tin yêu.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức của Đảng phải luôn cố gắng học tập, noi gương các thế hệ đi trước, nguyện là người chiến sĩ cách mạng trung thành với Đảng, hết lòng phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong thời kỳ mới của cách mạng nước ta.
Bảo Lạc, ngày 20 tháng 4 năm 2010
Người dự thi
 Đặng Hoàng Diệu

Tài liệu đính kèm:

  • docde cuong cuoc thi 80nam xay dung dang.doc