Sự đổi mới của thơ Nguyễn Đình Thi trong giai đoạn 1945 - 1975

Sự đổi mới của thơ Nguyễn Đình Thi trong giai đoạn 1945 - 1975

Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ của những kẻ mất nước đã đứng lên trở thành người làm chủ, tự quyết định vận mệnh của mình. Tuy nhiên công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước vẫn còn là một hành trình dài, đầy hy sinh gian khổ. Cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, văn học cũng khép lại một chặng đường, chặng đường hiện đại hóa, và mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nền văn học cách mạng ra đời. Đó là một nền văn học cần thống nhất được thiên hướng sáng tạo của cá nhân với yêu cầu của nhân dân và thời đại. Chính vì vậy, văn học giai đoạn này(ở đây chỉ nói riêng đối với bộ phận văn học cách mạng) mang những đặc điểm riêng, khác với văn học giai đoạn trước. Đó là nền văn học phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, trở thành một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, không có sự phân hóa thành nhiều khuynh hướng, trường phái như trước năm 1945. Trong nền văn học giai đoạn này, các tác giả có thể có tiếng nói riêng nhưng ở họ đều chung một con đường, một tư tưởng, một nhiệm vụ: Nhà văn chiến sỹ. Họ bám sát thực tiễn cách mạng, bám sát vận động xã hội, phản ánh kịp thời những vấn đề quan trọng, lớn lao của đất nước.

Trong suốt chặng đường 30 năm phát triển, bỏ qua những hạn chế mà

doc 18 trang Người đăng hien301 Lượt xem 2631Lượt tải 0 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sự đổi mới của thơ Nguyễn Đình Thi trong giai đoạn 1945 - 1975", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Tiểu luận này là một phần kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu chuyên đề “Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975” dưới sự dẫn dắt và truyền đạt nhiệt tình, nghiêm túc và khoa học của thầy phụ trách Chuyên đề, Phó giáo sư - Tiến sỹ Trần Hữu Tá. 
Trong điều kiện hiện tại của bản thân, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm hiểu, nghiên cứu để thực hiện bài viết một cách tốt nhất nhưng do nhiều nguyên nhân, chủ quan cũng như khách quan, bài viết chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót, bất cập, cần có sự chỉ giáo quý báu của thầy; sự phê bình, đóng góp ý kiến với thiện ý xây dựng của đồng môn, đồng nghiệp và người đọc. Khi ấy, người viết sẽ cố gắng thể hiện tốt hơn và hy vọng bài viết sẽ hoàn chỉnh hơn. 
Nhưng trước hết, người viết xin trân trọng và chân thành tri ân những điều dạy bảo và chỉ dẫn của Phó giáo sư – Tiến sỹ Trần Hữu Tá, một người thầy mẫu mực trong nhân cách; tận tâm trong giảng dạy và nghiêm túc, khách quan trong khoa học! Nhân đây, người viết cũng xin vô cùng cảm ơn các đồng môn, đồng nghiệp đã giúp đỡ, góp ý để bài viết được hoàn thành!
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2009
Người thực hiện
 Nguyễn Thanh Tùng
MỤC LỤC
I/PHẦN MỞ ĐẦU..Trang 2
1. Lý do chọn đề tài..Trang 2
2. Phương pháp nghiên cứuTrang 4
3. Kết cấu bài viếtTrang 5
II/ PHẦN NỘI DUNG..Trang 5
1. Vài nét về Nguyễn Đình Thi..Trang 5
2. Sự đổi mới của thơ Nguyễn Đình Thi về mặt nội dung:
..Trang 6
	3. Đổi mới về mặt nghệ thuật của thơ Nguyễn Đình Thi 
...Trang 11 
III/ PHẦN KẾT LUẬN.Trang 16
I/ PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ của những kẻ mất nước đã đứng lên trở thành người làm chủ, tự quyết định vận mệnh của mình. Tuy nhiên công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước vẫn còn là một hành trình dài, đầy hy sinh gian khổ. Cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, văn học cũng khép lại một chặng đường, chặng đường hiện đại hóa, và mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nền văn học cách mạng ra đời. Đó là một nền văn học cần thống nhất được thiên hướng sáng tạo của cá nhân với yêu cầu của nhân dân và thời đại. Chính vì vậy, văn học giai đoạn này(ở đây chỉ nói riêng đối với bộ phận văn học cách mạng) mang những đặc điểm riêng, khác với văn học giai đoạn trước. Đó là nền văn học phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, trở thành một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, không có sự phân hóa thành nhiều khuynh hướng, trường phái như trước năm 1945. Trong nền văn học giai đoạn này, các tác giả có thể có tiếng nói riêng nhưng ở họ đều chung một con đường, một tư tưởng, một nhiệm vụ: Nhà văn chiến sỹ. Họ bám sát thực tiễn cách mạng, bám sát vận động xã hội, phản ánh kịp thời những vấn đề quan trọng, lớn lao của đất nước.
Trong suốt chặng đường 30 năm phát triển, bỏ qua những hạn chế mà bất kỳ nền văn học nào ít nhiều cũng đều mắc phải, văn học cách mạng đã đạt được những thành tựu lớn, thể hiện ở tất cả các thể loại, đóng góp đáng kể vào sự phát triển chung của văn học dân tộc. Một trong những lĩnh vực văn học đạt được nhiều thành tựu lớn, thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ là thơ ca với sự đóng góp tài năng, tâm huyết của nhiều nghệ sỹ thuộc nhiều thế hệ như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Dần, Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến DuậtSự đổi mới của thơ ca trong giai đoạn này thể hiện cả về mặt nội dung lẫn hình thức. Một trong những tên tuổi góp phần tích cực cho sự tìm tòi và đổi mới của thơ ca giai đoạn này Nguyễn Đình Thi. 
Nguyễn Đình Thi thuộc kiểu nghệ sĩ đa tài, ông vừa là nhạc sĩ với những ca khúc bất hủ, vừa là nhà văn với những sáng tác trải ra trên các lĩnh vực: thơ, văn xuôi, kịch, tiểu luận phê bình...Song thơ là cái mà ông thiết tha nhất, dụng công nhiều nhất trong việc tìm tòi đổi mới, như chính ông từng phát biểu : “Thơ là cái thiết tha nhất của tôi, và cái tìm tòi rất khổ của tôi”. Thơ của nguyễn Đình Thi thời kì đầu kháng chiến đã đem lại cho thơ ca Cách mạng một âm hưởng mới với những cách tân đầy táo bạo.
Nguyễn Đình Thi luôn trăn trở và dành nhiều tâm huyết nhất cho sự tìm tòi một hướng sáng tạo nhằm đổi mới diện mạo thơ ca. Nhờ tài năng và bản lĩnh sáng tạo, Nguyễn Đình Thi đã tạo ra một phong cách thơ riêng, độc đáo và hiện đại. Thơ ông dạt dào cảm hứng yêu thương sâu lắng về đất nước “vất vả, gian nan, tươi thắm vô ngần”. Đất nước đau thương và quật khởi, con người vất vả và anh hùng là chủ đề quán xuyến trong thơ Nguyễn Đình Thi. Với tình cảm gắn bó tha thiết với đất Việt yêu thương, với niềm tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc, Nguyễn Đình Thi đã cho ra đời những bài thơ bất hủ như “Đất nước”, “Nhớ”, “Bài thơ Hắc Hải”, “Lá đỏ” Những câu thơ tha thiết lắng đọng giàu chất triết lý chiêm nghiệm về sự kỳ diệu của sự sống, của tình yêu, của sức mạnh tiềm ẩn trong con người Việt Nam hiền lành, đôn hậu. Thơ Nguyễn Đình Thi hàm súc và giản dị, đằng sau từng lời thơ đều như có dư ba, đều có khả năng gợi không khí, gợi hình ảnh và tâm trạng. Câu thơ của ông phóng khoáng tự do, không câu nệ vần, thậm chí không vần nhưng vẫn giàu nhạc điệu. Mỗi bài thơ đều có chất nhạc riêng không lẫn được. Chính những nỗ lực đổi mới thơ ca, chính những tìm tòi thể nghiệm táo bạo của Nguyễn Đình Thi đã khiến thơ ông trở thành đề tài gây tranh luận ngay từ năm 1949. Trong suốt một thời gian dài sau đó, ông vẫn cô đơn, âm thầm một mình bước lặng lẽ trên con đường thơ mà ông đã lựa chọn. Không ít những lời gièm pha, không ít những lời kỳ thị của đồng nghiệp nhưng ông vẫn tin tưởng, vẫn kiên trì một lối đi riêng bởi đó là "niềm tha thiết nhất" của ông. Và thời gian chính là sự khẳng định rõ ràng nhất cho chân lý của cuộc sống. Thực tế phát triển của thơ ca tiếng Việt Nam đã chứng minh những cách tân của ông về thơ ca là hoàn toàn đúng đắn và hợp quy luật. Thế hệ các nhà thơ trẻ Việt Nam hiện nay đã và đang kế thừa và phát huy những thành tựu cũng như những hướng tìm tòi của ông.
Qua nghiên cứu học tập chuyên đề “Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975”, dưới sự dạy bảo tận tình của Phó giáo sư – Tiến sỹ Trần Hữu Tá, người viết xin mạo muội nêu lên những ý kiến thiển cận của mình về sự đổi mới của thơ Nguyễn Đình Thi trong giai đoạn 1945 - 1975 như là một bài tự kiểm tra kiến thức sau khi tiếp nhận chuyên đề.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thực hiện bài viết này, người viết chủ yếu vận dụng các phương pháp, thao tác chủ yếu sau đây:
- Phân tích
- tổng hợp
3/ KẾT CẤU BÀI VIẾT
Bài viết gồm ba phần chính:
- Phần mở đầu trình bày lý do mà người viết chọn đề tài thể hiện; phương pháp thực hiện và kết cấu bài viết;
- Phần thứ hai là nội dung chính mà người nghiên cứu Chuyên đề cần trao đổi, gồm các vấn đề:
1. Vài nét về nhà thơ Nguyễn Đình Thi
2. Sự đổi mới của thơ Nguyễn Đình Thi về mặt nội dung
3. Sự đổi mới của thơ Nguyễn Đình Thi về mặt nghệ thuật
- Phần kết luận
II. PHẦN NỘI DUNG: SỰ ĐỔI MỚI CỦA THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI TRONG GIAI ĐOẠN 1945 - 1975
1/ VÀI NÉT VỀ NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI
Nguyễn Đình Thi quê ở Hà Nội nhưng sinh ở Luang Prabang (Lào). Đến năm tuổi, Nguyễn Đình Thi theo bố mẹ trở về nước và đi học ở Hà Nội rồi Hải Phòng. Từ nhỏ, Nguyễn Đình Thi đã nổi tiếng thông minh, học rất giỏi tất cả các môn, đặc biệt là môn Triết. Đang đi học mà ông đã viết sách triết học như “Triết học nhập môn” (1942), “Triết học Căng” (1942), “Triết học Nit-xơ” (1942), “Triết học Anh-xtanh” (1942), “Siêu hình học” (1942) và cùng một số người bạn học bí mật nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông học Luật ở Đại học Đông Dương và trở thành một trong những cán bộ chủ chốt của Hội Văn hoá Cứu quốc. Là trí thức yêu nước, Nguyễn Đình Thi đã sớm trở thành người chiến sĩ cách mạng trung kiên. Ông đã từng là đại diện của Việt Minh trong Đảng Dân chủ. Hai lần bị kẻ thù bắt bớ, tra tấn, mua chuộc nhưng ông vẫn một lòng thuỷ chung với Cách mạng. Tháng 7.1945, Nguyễn Đình Thi được đi dự Quốc dân Đại hội tại Tân Trào và được cử vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam. Từ đó cho đến cuối đời, Nguyễn Đình Thi liên tục đảm nhận những cương vị quan trọng trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật: Tổng thư ký Hội Văn nghệ, Tổng thư ký Hội Nhà văn, Chủ tịch Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam.
Nguyễn Đình Thi là người hoạt động chính trị, đã từng là sĩ quan quân đội, nhưng nhắc đến ông là mọi người nghĩ đến một nghệ sĩ đa tài. Ông sáng tác nhạc, làm thơ, viết tiểu thuyết, kịch, tiểu luận phê bình. Ở lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp đáng trân trọng.
2/ SỰ ĐỔI MỚI CỦA THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI VỀ MẶT NỘI DUNG
2.1/ Đổi mới về đề tài
 Thế giới Thơ Mới bị giới hạn trong cái “tôi”, ít gắn bó với những vấn đề cơ bản của đời sống cần lao. Đến thơ Cách mạng, mà Nguyễn Đình Thi là một trong những cây bút đi đầu, thế giới thơ mở ra thực tại rộng lớn hơn. Nhà thơ hướng tới đời sống thực tại phong phú, sống động. Thơ Nguyễn Đình Thi ghi lại một cách tươi mới, tự nhiên hiện thực sinh động của sự sống đang lên. Thực tế Cách mạng đã “thổi lửa” vào tâm hồn nhà thơ, giúp ông tìm được cho mình “ngọn nguồn phong phú nhất”, “muôn màu muôn vẻ”, để “tiếp sức sống tươi trẻ cho nghệ thuật, tạo ra giá trị tinh thần cho loài người”.
2.2/ Cảm hứng mới :
Nguyễn Đình Thi quan niệm: “Thơ phải có tư tưởng , phải có ý thức”, thơ phải nói lên được những tư tưởng mới của thời đại. Tư tưởng trong thơ, theo Nguyễn Đình Thi, là tư tưởng gắn liền với cuộc sống, ở trong cuộc sống. Mà đời sống ở đây không được hiểu là những hoạt động mưu sinh của sự sinh tồn mà là sự sống của tâm hồn, là “trạng thái tâm lý đang rung chuyển mạnh mẽ khác thường”. Ông khẳng định: “Thơ là tiếng nó iđầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đua, chạm với cuộc sống. Toé lên ở nơi giao nhau giữa tâm hồn với ngoại vật, trước hết là những cảm xúc” và “và đem cảm xúc mà đi thẳng vào sự suy nghĩ”. Trong bối cảnh những năm đầu kháng chiến chống Pháp, cảm hứng chủ đạo của thơ Nguyễn Đình Thi là cảm hứng về đất nước trong chiến tranh.
Tình yêu quê hương đất nước là một đề tài lớn trong thơ ca Cách Mạng nói chung, thơ kháng chiến chống Pháp nói riêng. Nhưng với mỗi nhà văn đất nước hiện lên với một gương mặt riêng. Với cảm hứng hiện thực kết hợp lãng mạn bay bổng, đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Đình Thi hiện lên như một thể thống nhất với sự chuyển hóa của hai đối cực: “vất vả đau thương” nhưng “tươi thắm vô ngần”.
Bằng những hình ảnh thơ đầy sức ám gợi, Nguyễn Đình Thi đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không thể quên về một đất nước đau thương trước sự giày xéo của quân thù:
“Bức tường đầy vết đạn
Ôm bóng tối đổ nghiêng...
Hà Nội nát người trong gai sắt
Máu chảy hồng tươi bất khuất”
 (Hà Nôi đêm nay)
“Cây cháy rũ vàng
Mặt em trắng toát"
(Em bé gái)
“Ôi quê hương ta đau xót
Đói gầy mắt nhìn thiêu đốt”
(Lúa) 
Nhưng tâm điểm trong cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi không phải ở nỗi vất vả, đau thương. Nhà thơ dường như dồn hết tâm sức của mình để khắc họa một đất nước tươi thắm vô ngần, dù cho  ... nh đã nối tiếp cảm hứng ấy. 
Thơ Mới là tiếng thơ của cái tôi cá nhân có phần tích cực, có ý nghĩa nhân bản, nhưng không ít trường hợp là cái tôi cô đơn, buồn chán tìm kiếm sự thoát li, hưởng lạc. Cuộc Cách mạng tháng tám thắng lợi mở ra một thời đại mới, thời đại của cái ta, thơ văn ít nói đến cái tôi cá nhân, ít nói đến nỗi buồn, tình yêu... Nhà phê bình Hoài Thanh cũng đã có nói: “Đời sống cá nhân không có nghĩa gì trong đời sống bao la của toàn thể”...Nhưng Nguyễn Đình Thi vẫn viết về tình yêu lứa đôi, và không thể phủ nhận rằng ông cũng có những bài thơ tình đích thực. Cảm hứng về hạnh phúc, cá nhân trong thơ ông có những nét riêng đột phá. Tình yêu trong thơ ông là những mối tình nảy nở trong cuộc vạn lí trường chinh đầy bão tố của dân tộc. Những người chiến sĩ nguyện hi sinh cho hạnh phúc của nhân dân của cộng đồng nhưng cũng có hạnh phúc của riêng mình. Họ tự nguyện gác tình riêng để chiến đấu bởi họ biết xa nhau chỉ là tạm thời, xa nhau để mong có ngày gặp lại: 
"Đôi người yêu xa cách lại xa nhau
Yêu nhau nên họ xa nhau"
(Chuyện hai người yêu xa cách) 
"Anh muốn em sung sướng suốt đời
Xa nhau hẹn ngày gặp lại”
(Chia tay)
 Khi kẻ thù còn giày xéo đất nước này thì mỗi cá nhân không thể có tình yêu trọn vẹn. Vì thế tình yêu luôn đồng hành cùng lí tưởng. Các nhà thơ Cách mạng thường né tránh chuyện tình yêu, nhớ nhung vì sợ nỗi nhớ bi lụy sẽ làm nhụt ý chí, còn Nguyễn Đình Thi dám nói lên những cảm xúc rất thật của lòng mình. Dưới ánh đèn không ngủ, bóng dáng người yêu lại hiện lên nguyên vẹn với “cái miệng hay cười”, “đôi mắt em hay nghĩ ngợi”, tưởng như “Thấy em bước vội / Tới tìm anh qua đêm lạnh xa xôi”...Nhưng cái miệng hay cười của em là cái miệng “nói chuyện những ngày mai sẽ tới”, tiếng thì thầm của em là tiếng “Thì thầm em nói em  yêu quá / Các anh vất vả vì giống nòi”(Bài thơ viết cạnh đồn Tây). Tình yêu của em như ngọn lửa như ánh sao chiếu rọi tim anh, chiếu rọi những chặng đường chiến đấu đầy gian lao phía trước: 
"Anh mang em như ngọn đèn chiếu rọi
Như trái tim anh đập không ngừng...
Đời anh có em như ngày có nắng
Yêu em anh yêu cả mọi người”
(Chia tay) 
Lần đầu tiên trong thơ kháng chiến, cảm hứng về tình yêu hòa quyện với cảm hứng về Tổ quốc. Nguyễn Đình Thi đã dung hòa được cá nhân và tập thể, cá nhân với cộng đồng, cái chung với cái riêng.Tình yêu trong thơ Nguyễn Đình Thi không não nùng như những bài thơ tình trong Thơ Mới, tình yêu trong thơ ông hòa quyện những phẩm chất mới, hiện đại của tình yêu thế hệ trẻ trong thời đại mới. Tình yêu em, tình yêu đôi lứa luôn đồng hành cùng tình yêu Tổ quốc dân tộc. Chính sự kết hợp hài hòa không gượng ép này khiến cho ông có những bài thơ tình đích thực.
3/ SỰ ĐỔI MỚI CỦA THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI VỀ MẶT NGHỆ THUẬT 
Thơ Mới ra đời là một cuộc cách mạng trong thơ ca. Về mặt hình thức, Thơ Mới đã phá vỡ nhiều khuôn khổ ràng buộc với những quy phạm chặt chẽ, tạo ra những khả năng mới và rộng rãi cho thơ trong việc phám phá và biểu hiện đời sống, đặc biệt là đời sống nội tâm của cái tôi cá nhân cá thể. Tuy nhiên xu hướng tự do hóa cho hình thức thơ ấy chỉ đi được những bước khởi đầu. Thơ Mới nhanh chóng tìm đến những hình thức thể loại khá ổn định theo con đường “từ xung khắc đến hòa giải với truyền thống” (Trần Đình Hượu). Sứ mệnh cách tân thơ theo hướng tự do hóa được chuyển sang tay các nhà thơ Cách mạng mà Nguyễn Đình Thi được xem là một trong những người “chủ xướng”. “Thơ Nguyễn Đình Thi đã tạo ra một điệu mới như tiếng sóng reo trong lặng lẽ, tấu lên một thứ nhạc mới - trong lặng mà rung ngân...” (Chu Văn Sơn ). Những cách tân táo bạo của ông đã đem đến cho thơ ca Cách mạng một diện mạo mới đến mức có nhà nghiên cứu đã so sánh nếu “Nguyễn Đình Thi cứ dám là mình, cứ dám đi cho thật hết cái lẽ phải của thơ theo quan niệm của mình”, không tìm cách dung hòa giữa cách tân và truyền thống trước sự phản ứng gay gắt của một số nhà thơ và độc giả đương thời thì “rất có thể ông đã có vai trò như Xuân Diệu với phong trào Thơ Mới”(Chu Văn Sơn). 
So với các thi sĩ trong phong trào Thơ Mới, các nhà thơ thuộc giai đoạn văn học Cách mạng nói chung và thời kì kháng chiến chống Pháp nói riêng đã đem đến cho thơ ca những cách tân đáng kể về mặt thi liệu, ngôn ngữ thơ, giọng điệu, thể thơ... Đóng góp nổi bật nhất của Nguyễn Đình Thi trong việc hiện đại hóa hình thức thơ ca giai đoạn đầu kháng chiến là sự đổi mới về thể thơ và ngôn ngữ thơ.
3.1/ Đổi mới về ngôn ngữ thơ:
Nếu như các nhà Thơ Mới và một số nhà thơ Cách Mạng sau này có xu hướng mĩ lệ hóa từ ngữ thì Nguyễn Đình Thi chủ yếu để hiện hình lên trang giấy những từ ngữ thuần Việt, mộc mạc, tự nhiên. Trong thơ ông xuất hiện đậm đặc các từ thuần Việt, các tính từ, các từ láy để “Mỗi tiếng mỗi chữ ngoài công dụng gọi tên sự vật bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến chung quanh nó những cảm xúc những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy”: 
Quanh co, chen nhau rộn ràng Đồng Xuân
Xanh tươi bát ngát Tây Hồ
Hàng Đào ríu rít Hàng Đường Hàng Bạc, Hàng Gai...
(Người Hà Nội)
 Rừng cây rung gió say sưa
Ngàn sao nghiêng mình chào vẫy
Bãi cát thắp lên từng dòng đuốc lửa
Đò bơi tíu tít qua sông...
(Đêm sao) 
Với ngôn ngữ thơ giản dị nhưng Nguyễn Đình Thi vẫn gọi về cho thơ mình những hình ảnh thơ độc đáo. Ông rất coi trọng hình ảnh trong thơ. Theo ông, “Người làm thơ phải để cho hình ảnh tự nói lên tình ý”. Nguyễn Đình Thi đã kiến tạo cho thơ mình hệ thống hình ảnh vừa lạ vừa quen, có những hình ảnh chưa thấy trong thơ ai bao giờ: 
"Những lề đường mòn cũ
Quặn nhớ chân người... 
Đêm nay trời sao trắng bạch
Cháy trùm những mái nhà đang khóc" 
Những con đường, những mái nhà thân quen gắn bó bao đời với mỗi chúng ta buớc vào thơ Nguyễn Đình Thi như mang một bóng dáng khác. Đó không phải là những vật vô tri, ngàn đời nằm im lìm dưới bước chân người qua lại nữa mà nó cũng như có linh hồn, biết nhớ nhung biết khóc... 
Hình ảnh trong thơ Nguyễn Đình Thi khỏe khoắn, gân guốc, chất phác tự nhiên nhưng cũng không kém phần tinh tế, uyển chuyển. Lắng lại trong những tiếng ầm ầm của bom đạn, của gót giầy quân thù, bật lên trên nền đen tối của bóng đêm, của “miệng súng đen sì tua tủa” là: 
"Ngang đồi một tia vàng bay vút
Một vàng sao sáng ngời muôn vầng sao
Tung lên như hoa lửa
Như bụi ngọc ngập trời
Rơi rơi trên đầu trên cổ
Trên ngón tay
Triệu triệu sao"
(Hà nội đêm nay) 
Bom đạn của kẻ thù không thể giết được “trời đầy chim và đất đầy hoa”, vẫn neo đậu trong thơ ông những hình ảnh nên thơ trên cái nền chết chóc mà quân thù đã gieo rắc trên đất nước này: 
Cầu tre bắc gióng cao
Nghiêng nghiêng soi bóng suối
Bướm trắng đuổi chân người
(Mưa xuân) 
3.2/ Đổi mới về giọng điệu thơ: 
Nguyễn Đình Thi là một trong những người đầu tiên khởi xướng kiểu thơ không vần. Trong khi một số nhà văn, nhà thơ khác quan niệm: “Thơ phải có vần, thơ không có vần không gọi là thơ”(Ngô Tất Tố), “Vần là cái xe chở hồn của bài thơ”(Hoàng Cầm), “Dùng vần có mệt nhọc gì đâu, không dùng vần tức là lập dị” (Xuân Diệu), thì Nguyễn Đình Thi tuy không phủ nhận vai trò của vần “vần là một khí giới rất mạnh trong thơ” nhưng cũng kiên định ý kiến của mình: “không phải hết vần là hết thơ...Không phải hễ thiếu võ khí này thì trận đánh nhất định thua, thiếu võ khí ấy trận đánh gay go hơn nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng”, “Khi làm thơ, thái độ của người làm thơ là ghi lại cảm xúc. Nếu cảm xúc gặp vần thì hay. Nhưng gặp khi gò bó hãy vượt lên nó đã. Hình thức nghệ thuật phải tự thân nó ra”. Với quan niệm như vậy, Nguyễn Đình Thi đã tiến hành một cuộc thí nghiệm táo bạo, nhưng không cực đoan, về loại thơ không có vần. Nghĩa là ông muốn giải phóng thơ ra khỏi sự cầm tù của vần, sự trói buộc của luật lệ hà khắc. 
Tuy không coi trọng vần nhưng ông lại đặc biệt chú trọng nhịp điệu trong thơ.Theo Nguyễn Đình Thi, nhịp điệu là hình thức đích thực của thơ, nhưng có điều nhịp điệu ấy không phải là nhịp điệu bằng trắc thông thường mà là thứ nhạc bên trong, "nhạc của tâm hồn”. Nó là sự hoà điệu giữa tình, ý, hình và sự âm vang của lời và tiếng, chứ không phải là sự phân chia về phương diện tuyến tính của ngữ âm. Ông nói :“Thơ có một thứ nhạc nữa, một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh tình ý, nói chung là của tâm hồn ()Đó là nhịp hình thành của những cảm xúc, hình ảnh liên tiếp hoà hợp mà những tiếng và chữ gợi ra những ngân vang dài, ngay những khoảng lung linh giữa chữ, những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của sự xúc động”.
Với quan niệm như vậy, nhịp điệu trong thơ Nguyễn Đình Thi là nhịp điệu của của cuộc sống. Khi tâm hồn vui phơi phới âm thanh thường vang lên ở cung bậc cao: 
"Gió thổi rừng tre phấp phới
Trong biếc nói cười thiết tha"
(Đất nước) 
Khi cảm xúc tầm buồn sâu lắng thơ ông tự tìm cho mình những thanh trầm buồn: 
"Tây Bắc rung mình nhớ người lính trẻ
Sông Đà gầm mãi không nguôi"
(Người tử sĩ) 
Mỗi bài thơ của Nguyễn Đình Thi như những khúc nhạc, mỗi khúc nhạc mang một âm  hưởng, một giai điệu riêng: khi thì nhưu tiếng dội trầm sâu của lịch sử vọng về “Đất nước”, khi thì mang âm hưởng hùng tráng (Nguời Hà Nội), khi thì là một nét buồn mênh mang (Không nói). Nếu như những bài thơ lục bát của Tố Hữu dễ đi vào lòng người bởi cách hiệp vần dễ thuộc dễ nhớ thì sở dĩ những vần thơ có vẻ trúc trắc khó đọc của Nguyễn Đình Thi có thể lưu lại trong tâm hồn người đọc bởi tính nhạc truyền cảm ấy.
Làm nên tính nhạc cho thơ ông, bên cạnh tiếng nhạc lòng tuôn trải trên trang giấy không thể không kể đến vai trò của các thể thơ được ông sử dụng một cách nhuần nhuyễn và linh hoạt. Hầu như bài thơ nào cũng được ông sử dụng phối hợp đan xen nhiều thể thơ. Những câu thơ dài ngắn khác nhau phụ thuộc vào cảm xúc: nỗi đau uất nghẹn trước hành động bạo tàn của quân thù khiến câu thơ như bị bẻ gãy: 
"Ngoài phố ầm ầm lũ cướp
Bắt
Khám
Chăng dây
Miệng súng đen sì tua tủa”
(Đêm sao) 
Còn trong niềm vui sướng hân hoan câu thơ như kéo dài vô tận: 
"Bụi hè đường cuốc bốc tung bay xác thù rơi dưới gót giầy
Ầm ầm cười tiếng súng vui thay, trông ngày mai sáng láng...”
III. PHẦN KẾT LUẬN
Những cách tân táo bạo của Nguyễn Đình Thi cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, như đã nói một cách rất khái quát ở trên, không chỉ góp phần tạo nên một diện mạo mới cho thơ ca giai đo ạn 1945 – 1975 mà còn tạo nên một bước đà, tạo nền tảng cho sự cách tân thơ trong giai đoạn tiếp theo ở thế hệ những nhà thơ trẻ sau này...
Trong khuôn khổ khiêm tốn của một bài thực hành, cộng với áp lực về thời gian và chương trình học, bài viết chắc chắn có nhiều bất cập . Kính mong sự chỉ dạy tận tình của thầy hướng dẫn chuyên đề và sự thể tất của người đọc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. P.Gs – Ts Trần Hữu Tá - Bài giảng Chuyên đề “Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.
2. Vũ Duy Thông - Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 – 1975, NXB giáo dục, 2001.
3. Chu Văn Sơn - Nguyễn Đình Thi và một hướng tìm tòi của thơ hiện đại, 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng 8, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội, 1996.
4. Vương Trí Nhàn - Số phận những tìm tòi hình thức trong thơ Việt Nam sau 1945, 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạngTháng 8, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội, 1996.

Tài liệu đính kèm:

  • docsự đổi mới của thơ Nguyễn Đình Thi trong giai đoạn 1945 - 1975 (Tiểu luận).doc