Giáo án Ngữ văn 12 chi tiết: Một người Hà Nội (Nguyễn Khải)

Giáo án Ngữ văn 12 chi tiết: Một người Hà Nội (Nguyễn Khải)

MỘT NGƯỜI HÀ NỘI

 Nguyễn Khải

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC

- Cảm nhận được lối sống, bản lĩnh văn hóa của một người Hà Nội; từ đó thấy rõ vẻ đẹp giản dị, chân thực của những con người bình thường mà cuộc đời họ song hành cũng những chặng đường gian lao của đất nước và chính họ góp phần làm nên lịch sử.

- Thấy được thành công đáng chú ý về giọng điệu trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Khải.

 

doc 7 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1202Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ văn 12 chi tiết: Một người Hà Nội (Nguyễn Khải)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một người Hà Nội
 Nguyễn Khải
A. Mục tiêu bài học
- Cảm nhận được lối sống, bản lĩnh văn hóa của một người Hà Nội; từ đó thấy rõ vẻ đẹp giản dị, chân thực của những con người bình thường mà cuộc đời họ song hành cũng những chặng đường gian lao của đất nước và chính họ góp phần làm nên lịch sử.
- Thấy được thành công đáng chú ý về giọng điệu trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Khải.
B. Nội dung bài học
I. Tiểu dẫn
1. Tác giả
- Nguyễn Khải tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải sinh ngày 3 - 12 - 1930 tại Hà Nội, quê nội ở Nam Định nhưng tuổi nhỏ sống ở nhiều nơi.
- Nguyễn Khải sinh ra trong một gia đình quan lại nghèo, đã sa sút ở Hà Nội. Thân phận mẹ con ông là thân phận vợ lẽ con thêm nên tuổi thơ Nguyễn Khải đã phải trải qua nhiều cay đắng, tủi nhục, nhiều khi sống trong sự ghẻ lạnh, khinh ghét gia đình, họ hàng, thậm chí cả người cha đẻ của mình.
- Nguyễn Khải sớm phải lăn lộn, quăng quật vào đời để kiếm sống, nuôi mẹ và nuôi em. Có thể nói, chính những trải nghiệm cay đắng thời niên thiếu đầy éo le, tủi cực khiến cho tính cách cũng như văn chương của ông từ sớm đã có những đặc điểm riêng: đó là sự nhẫn nhịn, khôn ngoan, sắc cạnh, tỉnh táo, là sự già dặn, hiểu người, hiểu đời.
- Đang học trung học thì gặp cách mạng tháng Tám. Kháng chiến chống Pháp - đầu năm 1947, Nguyễn Khải gia nhập tự về chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo.
- Năm 1951, ông làm công tác tuyên huấn ở Phòng chính trị Liên khu Ba. Năm 1952, ông làm Thư kí tòa soạn tờ báo Chiến sĩ của Khu Tư.
- Từ năm 1955, Nguyễn Khải công tác ở tòa soạn Tạp chí Văn nghệ quân đội, là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam.
- Sau 1975, Nguyễn Khải chuyển vào sinh sống, công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nhà văn đó từ trần ngày 15 - 1 - 2008 tại TP HCM.
2. Sự nghiệp sáng tác
- Nguyễn Khải bắt đầu viết văn từ năm 1950. Năm 1951, với truyện Xây dựng, ông được giải khuyến khích về văn xuôi trong cuộc thi văn nghệ 1951 - 1952. Ông được người đọc chú ý từ tiểu thuyết Xung đột ( phần I - 1959, phần II - 1962 ). 
- Nguyễn Khải có nhiều tác phẩm:
+ Về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới như Mùa lạc ( 1960 ), Một chặng đường ( 1962 ), Tầm nhìn xa ( 1963 ), Người trở về ( 1964 ), Chủ tịch huyện ( 1972 ),...
+ Về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mĩ như Họ sống và chiến đấu ( 1966 ), Hòa vang ( 1967 ), Đường trong mây ( 1970 ), Ra đảo ( 1970 ), Chiến sĩ ( 1973 ), Tháng ba ở Tây Nguyên ( 1976 ).
+ Từ sau năm 1975, sáng tác của Nguyễn Khải đề cập đến nhiều vấn đề xã hội - chính trị có tính thời sự, đặc biệt quan tâm đến tính cách, tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống - tiêu biểu là các tiểu thuyết: Cha và con, và ... ( 1979 ); Gặp gỡ cuối năm ( 1982 ); Thời gian của người ( 1985 ) và các tập truyện ngắn: Một người Hà Nội ( 1990 ); Một thời gió bụi ( 1993 ); Hà Nội trong mắt tôi ( 1995 ); Sống ở đời ( 2003 ),...
- Phong cách của Nguyễn Khải:
+ Trước thời kì đổi mới, cái nhìn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải là những nhận xét sắc sảo, tinh tế với những trang viết nóng hổi hơi thở của của cuộc sống, phong cách viết văn xuôi hiện thực tỉnh táo, sắc lạnh, nghiêm ngặt, đơn chiều, nhà văn luôn khai thác hiện thức trong thế xung đột, đối lập cũ - mới, tiến bộ - lạc hậu, tốt - xấu, ta - địch,... qua đó khẳng định xu thế vận động từ bóng tối ra ánh sáng của cuộc sống mới, con người mới. 
+ Bước sang thời kì đổi mới, cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Khải là một cái nhìn đầy trăn trở, suy nghiệm, cảm nhận hiện thực xô bồ, hối hả, đầy biến động, đổi thay nhưng cũng đầy hương sắc, chuyển mạnh từ hướng ngoại sang hướng nội, lấy việc khám phá con người là trung tâm. Nhà văn nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, với quá khứ dân tộc, với quan hệ gia đình và tiếp nối thế hệ, để rồi cuối cùng bao giờ cũng khẳng định, ngợi ca những giá trị nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người hôm nay.
- Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, năng lực phân tích tâm lí sắc sảo, sức mạnh của lí trí tỉnh táo. Tác phẩm của Nguyễn Khải những năm sau càng nổi bật tính chính luận - triết lí.
- Năm 2000, Nguyễn Khải được Nhà nước phong tặng Giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật ( đợt II ).
3. Tác phẩm
- Truyện ngắn Một người Hà Nội ( 1990 ) cũng như các tác phẩm khác của Nguyễn Khải luôn có giọng văn rất trải đời ( Điều này có liên quan đến một điểm đặc biệt trong tiểu sử của ông ).
- Truyện Một người Hà Nội thể hiện cái nhìn nghệ thuật mới của Nguyễn Khải về cuộc sống và con người. Đồng thời, truyện còn phát hiện vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Việt Nam qua bao biến động, thăng trầm của đất nước.
II. Đọc văn bản
1. Nhan đề tác phẩm
- Nhan đề Một người Hà Nội như muốn nhấn mạnh vào bản lĩnh, cốt cách của người Hà Nội. Họ luôn ý thức mình là sự đại diện cho cả nước:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.
- Người đọc nhận ra chất Hà Nội ở cô Hiền qua nét lịch lãm, sang trọng của người Hà thành ( cỏch trang trớ phũng khỏch, những bữa ăn của gia đỡnh cụ đều toỏt lờn vẻ cổ kớnh, quý phỏi và úc thẩm mĩ tinh tế của chủ nhõn) ; qua thái độ ung dung, tự tại và ở cô Hiền có cái duyên và sự quyến rũ của người Hà Nội. Cô luôn luôn dám là mình khi đề cao lòng tự trọng, là mình trong các mối quan hệ với cộng đồng, với đất nước và là mình khi cô chiêm nghiệm về lẽ đời. 
2. Tóm tắt văn bản
- Đoạn 1:
 Nhõn vật tụi giới thiệu về cụ Hiền, chị em đụi con dỡ ruột với mẹ già tụi, nờu ấn tượng chung về gia đỡnh cụ Hiền, một gia đỡnh mà từ nhà cửa cho đến nghề nghiệp, ăn mặc và lối sống đều cho thấy đớch thị là tư sản. 
[2]
- Đoạn 3:
 Sau hòa bình lập lại, nhân vật tôi từ chiến khu về Hà Nội. Người lính cách mạng thấy người dân Hà Nội đang thích ứng dần với cuộc sống mới. Cô Hiền nói về niềm vui và cả những cái có phần máy móc, cực đoan của cuộc sống xung quanh.
- Đoạn 4:
 Thời kì đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cuộc sống nhiều khó khăn. Cô Hiền tìm việc làm phù hợp với chủ trương, chính sách của chế độ mới, khéo léo chèo chống con thuyền gia đình vượt qua sóng gió.
- Đoạn 5:
 Miền Bắc bước vào thời kì đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mĩ. Cô Hiền dạy con cách sống biết tự trọng, biết xấu hổ, biết sống đúng với bản chất người Hà Nội. Người con trai đầu của cô tình nguyện đi bộ đội đánh Mĩ. Người em kế cũng làm đơn tòng quân theo anh, nhưng vì thi đại học đạt điểm cao nên được trường giữ lại.
- Đoạn 6:
 Đất nước tràn đầy niềm vui với đại thắng mùa xuân năm 1975. Vợ chồng nhân vật tôi đến dự buổi liên hoan mừng Dũng, người con đầu cô Hiền trở về. Câu chuyện cảm động của Dũng về Tuất, người đồng đội đã hi sinh và người mẹ của Tuất, một người mẹ Hà Nội có con đi chiến đấu chống Mĩ.
- Đoạn 7:
 Xã hội trong thời kì đổi mới với đủ cái phải - trái, tốt - xấu. Nhân vật tôi từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội công tác, ghé thăm cô Hiền. Giữa không khí xô bồ của thời kì kinh tế thị trường, cô Hiền vẫn là một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Từ chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn, cô Hiền nói về niềm tin vào cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
III. Đọc hiểu văn bản
1. Nhân vật cô Hiền
 Nhân vật trung tâm của truyện ngắn là cô Hiền, một người Hà Nội bình thường. Cũng như những người Hà Nội bình thường khác, cô đã cùng Hà Nội, cùng đất nước trải qua nhiều biến động, thăng trầm nhưng vẫn giữ được cái cốt cách người Hà Nội, cái bản lĩnh văn hóa của người Hà Nội. 
a) Những nột đẹp trong suy nghĩ của cụ Hiền
- Nột chuẩn trong suy nghĩ của cụ Hiền là lũng tự trọng, vỡ quan niệm của cụ rất rừ ràng. Vỡ thế, cô luôn đề cao lòng tự trọng và coi đó là nguyên tắc hành xử cao nhất của mỗi con người:
+ Lũng tự trọng khụng cho phộp sống tựy tiện, buụng tuồng: 
 Cô bảo ban, dạy dỗ con cháu cách sống làm một người Hà Nội lịch sự, tế nhị, hào hoa, biết giữ gìn phẩm chất, giá trị của người Hà Nội. Cô dạy từ những việc làm nhỏ nhất ngồi vào bàn ăn cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn đến cái lớn nhất là quan niệm sống, lẽ sống: Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng [...]. Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ ...
à Như vậy, cụ Hiền luụn giữ gỡn những nột đặc trưng trong lối sống Hà Nội, biểu lộ phong thỏi lịch lóm, sang trọng của người Hà thành. Cô luôn ý thức các con là những người dân của thủ đô - mảnh đất ngàn năm văn hiến, lối dạy bảo ấy là một lối dạy của một bà mẹ rất tinh tế, khôn ngoan và thấu hiểu lẽ đời, thấu hiểu cuộc sống.
+ Lũng tự trọng khụng cho phộp sống hốn nhỏt, ớch kỉ: 
 Bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, cô vô cũng thương con, lo lắng cho con nhưng sẵn sàng cho con ra trận như những thanh niên khác và mình cũng được vui buồn lo âu như những bà mẹ Việt Nam khác. 
 Trước việc đứa con đầu lòng tình nguyện xin đi đánh Mĩ, cô nói: Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là tự biết tự trọng.
à Điều này thể hiện sự dằng xé âm thầm giữa tình yêu con và tình yêu nước, giữa sự lo âu và ý thức về danh dự của một con người. Cô không muốn con mình gặp nguy hiểm, gian khổ nhưng cô cũng không muốn con mình sống trong đớn hèn và nhục nhã. Cô Hiền luôn luôn tôn trọng danh dự của con nên cô đã cho con đi chiến đấu. Cô không che dấu nỗi đau, không vờ vui vẻ, với bà đó là một quyết định khó khăn nhưng hợp lí. 
 Ba năm sau, đứa em theo bước anh, cũng đòi vào chiến trường, cô bày tỏ thái độ của mình: Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó... Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì. Suy nghĩ bình dị như thế của cô Hiền là suy nghĩ của một người thiết tha yêu nước.
à Đây là những suy nghĩ hết sức bình dị song lại thấm đượm đạo lí sâu sắc: một khi con người có lòng tự trọng thì sẽ có lòng yêu nước, sẽ có ý thức trách nhiệm với cộng đồng. Vì thế, suy nghĩ của cô Hiền cũng là suy nghĩ của một con người thiết tha, yêu nước.
+ Lũng tự trọng giỳp con người ta sống cú trỏch nhiệm với cộng đồng: 
 Điều này gắn với ý thức trách nhiệm của một công dân yêu nước, một bản lĩnh cá nhân mạnh mẽ, có khả năng vượt lên cái lẽ thường để đạt được cái bền vững theo một niềm tin riêng của mình. Như mọi người khác, cuộc đời cô Hiền song hành với những chặng đường dài, những biến động lớn lao của đất nước. Ở đây, lịch sử dân tộc đã được soi sáng qua số phận, cách ứng xử của từng cá nhân. Là một con người, cô Hiền luôn giữ gìn phẩm giá, nhân cách; còn khi là một người công dân, cô chỉ làm những gì có lợi cho đất nước, vì vận mệnh sống còn của đất nước.
- Nột đẹp trong suy nghĩ của cụ Hiền cũn là sự thẳng thắn: 
 Cô sống thẳng thắn, chân thành, không giấu giếm quan điểm, thái độ của mình với mọi hiện tượng xung quanh. Trước niềm vui kháng chiến thắng lợi, miền Bắc bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới, cô nhận xét: Vui hơn n ... óc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng. 
b) Những nột đẹp trong cỏch ứng xử của cụ Hiền
 Tuy là người Hà Nội chớnh gốc, nhưng cụ Hiền hũa đồng rất nhanh với cuộc sống mới khụng chỉ ở những suy nghĩ mà cũn ở những việc làm cụ thể của mỡnh:
- Cuộc sống cũn khú khăn ở giai đoạn đầu, nhưng cụ đó nhanh chúng thớch ứng bằng việc mở cửa hàng bán đồ lưu niệm và tự tay làm ra sản phẩm: Hoa làm rất đẹp, bán rất đắt ... chỉ có một mình cô làm, các em thì chạy mua vật liệu ... Cô không đồng ý cho mua máy in và thuê thợ làm vì cô muốn góp phần vào việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ để nhanh chóng khôi phục đất nước sau chiến tranh.
- Với cuộc khỏng chiến cứu nước của dõn tộc, cụ đó đồng ý để con ra trận với tõm trạng rất thật của người mẹ: Tao đau đớn mà bằng lũng, rồi đến đứa con thứ hai cũng cú ý nguyện như anh, cũng bày tỏ thỏi độ của mỡnh: tao khụng khuyến khớch, cũng khụng ngăn cản. Đõy là quyết định đỳng đắn nhưng cũng rất khú khăn, đầy dũng cảm của cụ Hiền - một cụng dõn yờu nước. 
c) Kết luận
- Nhõn vật cụ Hiền gợi lờn những vẻ đẹp và chiều sõu văn hoỏ của người Hà Nội. Qua suy nghĩ và việc làm của cụ Hiền, ta thấy nổi lờn hỡnh ảnh một con người Hà Nội bỡnh thường nhưng rất đỏng trõn trọng, nổi lờn bản lĩnh một con người song hành cựng chặng đường dài, những biến động lớn lao của đất của đất nước, mà núi như Nguyễn Khải, bà Hiền là một hạt bụi vàng của đất kinh kỡ, gúp phần làm đẹp thờm bản sắc văn húa chung của cộng đồng. 
 Tác giả đã coi cô Hiền là một hạt bui vàng của Hà Nội vì khi nói đến hạt bụi là người ta nghĩ đến một vật rất nhỏ bé, tầm thường, ít ai nhận thấy, chẳng có giá trị gì. Có điều, là hạt bụi vàng thì dù rất nhỏ bé nhưng lại mang giá trị quý báu, bao nhiêu hạt bụi vàng hợp lại sẽ thành áng vàng chói sáng. Cô Hiền là một người Hà Nội bình thường, vô danh, nhưng ở cô thấm sâu những cái tinh hoa trong bản chất người Hà Nội; những người Hà Nội như cô đã là những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội, tất cả đang bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng. Ánh vàng ấy là phẩm giá người Hà Nội, là cái truyền thống, cốt cách người Hà Nội, Hà Nội linh thiêng và hào hoa, Hà Nội văn hiến nghìn năm. Cho nên, tác giả cho cô Hiền là một hạt bụi vàng của Hà Nội.
- Nhân vật cô Hiền là một người Hà Nội bình thường nhưng cách sống của bà Hiền là một cách sống giản dị, tự nhiên, đó là một lối sống đẹp, có chiều sâu văn hóa, có sự trải nghiệm, có nguyên tắc mà không cứng nhắc, biết dung hòa trong những hoàn cảnh cụ thể. Ngoài ra, cô còn có một tâm hồn, một nhân cách cao đẹp, biết nhìn xa trông rộng, hiểu mình, hiểu người. 
- Nhõn vật cụ Hiền được trần thuật từ điểm nhỡn của nhõn vật tụi ( người kể chuyện ) và qua những tỡnh huống gặp gỡ với những nhõn vật khỏc, qua nhiều thời đoạn của đất nước.
2. Những người Hà Nội khác trong truyện
 Xung quanh cô Hiền là những người Hà Nội khác. Đứa con trai đầu lòng mà cô Hiền rất yêu quý là Dũng. Anh đã sống đúng với những lời mẹ dạy về cách sống của người Hà Nội: 
- Năm 1965, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt, vừa tốt nghiệp trung học, Dũng tình nguyện đăng kí xin đi đánh Mĩ. 
- Tháng tư anh lên Thái Nguyên huấn luyện, tháng bảy vào Nam, anh đã chiến đấu suốt mười năm và đã trở về. Nhưng có biết bao đồng đội của anh không có mặt trong ngày toàn thắng. Trong số 660 thanh niên ưu tú của Hà Nội lên đường cùng Dũng ngày ấy, bây giờ còn lại khoảng chừng trên dưới bốn chục, hơn 600 người đã hiến dâng tuổi xuân của mình cho ngày hạnh phúc hôm nay của đất nước.
- Nhớ về bao đồng đội đã hi sinh, Dũng xót xa thương Tuất, người bạn cùng trung đoàn. Cũng như Dũng, Tuất cũng rất yêu Hà Nội, yêu Tổ quốc và rất yêu thương người mẹ của mình. Ngày vào Nam, tàu qua ga Hà Nội, mẹ Tuất làm ở ở phòng phát thanh nhà ga, Tuất nghe rõ tiếng mẹ mình phát trên loa, nhưng anh không thể xuống ga để từ biệt mẹ. Đấy cũng là những lời cuối cùng của mẹ mà Tuất nghe thấy, anh đã hi sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày. Dũng vô cùng thương bạn, vô cùng xót xa và cảm thông với nỗi đau của mẹ Tuất, anh không biết nói như thế nào với một bà mẹ có con hi sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống, sống đến bây giờ, đến hôm nay.
 Có biết bao bà mẹ Hà Nội vô cùng thương con và đầy nghị lực như người mẹ của anh, họ đã nén chịu nỗi đau mất con, tiếp tục sống, tiếp tục dựng xây cuộc sống này. Gặp lại bạn chiến đấu của con, người bà run bần bật nhưng không khóc và bà run rẩy nói: Nín đi con, nín đi Dũng. Cô đã biết cả. Cô biết từ mấy tháng nay rồi. Có thể nói, qua sự kiện Dũng kể những kỉ niệm về Tuất, người đọc thấu hiểu chiều sâu thăm thẳm của tình đồng đội, tình mẹ con, tình nhân ái, tình yêu Tổ quốc, thấy được tinh thần nhân văn cao cả của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
à Tất cả những con người trên đã dám chịu để vượt qua nỗi đau, thể hiện vẻ đẹp ngời sáng và cốt cách của người Hà Nội. Có thể nói, tất cả những người Hà Nội ấy đã góp phần tô thắm thêm cốt cách tinh thần người Hà Nội, phẩm giá cao đẹp của con người Việt Nam.
- Bên cạnh sự thật về những người Hà Nội có phẩm cách cao đẹp, còn có sự thật về những người tạo nên nhận xét không mấy vui vẻ của nhân vật tôi về Hà Nội. Đó là ông bạn trẻ đạp xe như gió đã làm xe người ta suýt đổ, lại còn phóng xe vượt qua rồi quay mặt lại chửi: Tiên sư cái anh già - thật là tục tằn, thô bỉ. Đó là những người mà nhân vật tôi quên đường phải hỏi thăm, có người trả lời, là nói sõng hoặc hất cằm, có người cứ giương mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ - không có vẻ gì là cái tế nhị, thanh lịch của người Hà Nội. Cuộc sống là như thế. Hà Nội còn phải làm rất nhiều điều để giữ gìn và phát huy cái đẹp trong tính cách người Hà Nội.
à Người Hà Nội hôm nay còn có một sự thật không mấy vui vẻ thì người kẻ chuyện ( nhân vật tôi ) đã không giấu những lo âu, hoài nghi về Hà Nội đang giàu lên và vui hơn nhưng đó chỉ là vẻ bên ngoài. Nhân vật tôi tức và đau về những người Hà Nội thiếu lễ độ, thiếu văn hóa. 
3. Hình ảnh cây si kết thúc tác phẩm
 Khi cô Hiền nghe những lời thiếu lịch sự, thiếu văn hóa của người Hà Nội thì cô không bình phẩm mà chỉ lặng lẽ kể ra một câu chuyện đó là chuyện cây si mọc ở đền Ngọc Sơn có một phần bộ rễ bật đất chổng ngược lên trời rồi sau đó được thành phố cho máy cẩu tới đặt bên kia bờ quàng dây tời vào thân cây si rồi kéo dần lên và cuối cùng thì cây si lại sống lại, lại trổ ra lá non - đây cũng giống như một quy luật của cuộc sống.
- Cây si mọc ở đền Ngọc Sơn cũng có thể coi là một biểu tượng của nét cổ kính, trang nghiêm của Hà Nội. Cây si có thể bị bão đánh đổ, đó là do sự khắc nghiệt của tự nhiên nhưng đồng thời hình ảnh cây si cũng là thể hiện một quy luật vận động của xã hội: Hà Nội đã trải qua biết bao những biến cố lịch sử, cây si có thể bật một phần rễ nhưng nó vẫn trổ cành, xanh lá. Điều này cũng giống như sức sống của những con người Hà Nội.
- Dùng hình ảnh cây si, tác giả đã làm nổi bật rõ mạch triết luận của tác phẩm: thiên địa tuần hoàn, vạn vật biến đổi nhưng Hà Nội thời nào cũng đẹp với những vẻ đẹp riêng với những người Hà Nội chân chính như bà Hiền. 
4. Nghệ thuật đặc sắc
a) Giọng điệu trần thuật
 Trong truyện ngắn này, có thể thấy một giọng điệu trần thuật rất trải đời, vừa tự nhiên, dân dã vừa trĩu nặng suy tư, vừa giàu chất khái quát, triết lí, vừa đậm tính đa thanh:
- Tác giả hoàn toàn nhập thân vào nhân vật tôi để diễn tả, kể lại những gì mà mình đã chứng kiến, đã trải qua, đã nghiệm thấy.
- Chính cái chất tự nhiên, dân dã đã tạo nên phong vị hài hước rất có duyên trong giọng điệu trần thuật của nhân vật tôi. 
 Chẳng hạn: Trong lí lịch cán bộ không ghi tên cô Hiền. Họ thì xa, bắn súng đại bác chưa chắc đã tới, huống hồ còn là bà tư sản, dính líu vào lại thêm phiền... 
- Bằng vốn hiểu biết và sự trải nghiệm sâu sắc của bản thân, nhân vật tôi luôn thể hiện cách nhìn nhận cuộc sống và con người theo hướng suy ngẫm, chiêm nghiệm, triết lí.
 Chẳng hạn: ... Sau bữa tiệc mừng đại thắng mười lăm năm, tầng lớp lính đã mất ngôi vị độc tôn của mình rồi. Bây giờ là thời các giám đốc công ti, các tổng giám đốc công ti, các cố vấn, chuyên viên kinh tế thật giả đủ thể loại lên ngôi ban phát mọi tiêu chuẩn giá trị cho cả xã hội ... 
- Giọng trần thuật ở đây còn mang tính chất đa thanh:
+ Trong lời kể thường có nhiều giọng tự tin xen lẫn giọng hoài nghi: Chúng tôi thì vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ ?
+ Giọng tự hào xen lẫn giọng tự trào: Nói cho thật, Dũng mới là nhân vật chính, còn tôi chỉ là một nhân vật phụ, ghé gẩm vào cái vinh quang chung mà thôi...
à Có thể nói, giọng điệu trần thuật như thế đã làm cho truyện ngắn Nguyễn Khải đậm đặc chất tự sự rất đời thường mà hiện đại.
b) Nghệ thuật xây dựng truyện
- Không chỉ tổ chức giọng điệu mà trong xây dựng nhân vật, tất cả cũng được quy tụ bởi điểm nhìn nghệ thuật từ nhân vật tôi:
+ Ở đây, nhân vật tôi là đồng chí Khải, là anh Khải ( đích danh tác giả ), nhưng cũng có thể hiểu một cách phiếm định là một người nào đó được phân vai người kể truyện, người dẫn chuyện, người trần thuật và cũng là một cá nhân tự ý thức, tự biểu hiện mình. 
+ Những chi tiết tiểu sử ( có thể của tác giả ) như Hà Nội vừa giải phóng ... chúng tôi ngày ấy mới hăm bốn hăm nhăm cái xuân xanh ; chín năm xa phố phường ; tôi sống ở Thành phố Hồ Chí Minh thỉnh thoảng có việc phải ra Hà Nội,... đã làm tăng tính chân thật của điểm nhìn nghệ thuật.
- Tạo tình huống gặp gỡ giữa nhân vật tôi với các nhân vật khác cũng là cách để khám phá, phát hiện tính cách nhân vật:
 Những cuộc gặp gỡ gắn với những thời đoạn khác nhau của hiện thực đất nước: sau hòa bình lập lại năm 1954, sau đại thắng mùa xuân năm 1975, rồi nhiều năm đã trôi qua, đất nước bước vào thời kì đổi mới,... theo đó mà miêu tả sự vận động của tính cách cô Hiền, nhận xét về hành động, cách ứng xử của Dũng, Tuất, mẹ Tuất,...
- Ngôn ngữ các nhân vật cũng góp phần khắc họa sâu sắc tính cách của từng người:
+ Ngôn ngữ của nhân vật tôi đậm vẻ suy tư, chiêm nghiệm, day dứt, trăn trở, lại thoáng vẻ hài hước, tự trào của người rất trải đời: Thưa cô, là bọn lính chúng tôi, là giai cấp lính chúng tôi chứ ai nữa... 
+ Cô Hiền có đầu óc thực tế, tư duy logic, cách nói của cô ngắn gọn, rõ ràng, dứt khoát: Ông có đứng máy được không ? - Không - Ông có sắp chữ được không ? - Không - Ông sẽ phải thuê thợ chứ gì. Đã có thợ tất có chủ, ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à ?
+ Một người lính dày dặn trận mạc đã cùng bao đồng đội vào sinh ra tử như Dũng tất phải có những lời thật xót xa: Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hi sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống, sống đến bây giờ, đến hôm nay...
IV. Ghi nhớ
- Nội dung: 
 Tác phẩm đã đi sâu vào cuộc đời và tâm hồn một người Hà Nội bình thường để phản ánh hiện thực lịch sử dân tộc trên những chặng đường cách mạng, kháng chiến, xây dựng cuộc sống mới, từ đó nêu nêu bật lên phẩm chất cao đẹp của con người Hà Nội, con người Việt Nam.
- Nghệ thuật:
 Những nét đặc sắc trong giọng điệu trần thuật và xây dựng và nghệ thuật xây dựng nhân vật đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
----------Hết----------

Tài liệu đính kèm:

  • docMot nguoi Ha Noi Nguyen Khai.doc