Chủ đề Lý Luận văn học - Đề 4

Chủ đề Lý Luận văn học - Đề 4

Đề 4: Vì sao có thể nói văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người? Liên

hệ với thực tế văn học.

* BÀI LÀM

Văn học là trong những loại hình nghệ thuật có từ rất sớm, gắn bó thiết thân với đời

sống tinh thần của con người ngay từ thuở xa xưa. Dù dưới hình thức nào thì nó vẫn là sự

phản ánh thế giới khách quan qua thế giới chủ thể của nghệ sĩ. Tác phẩm nghệ thuật chân

chính là sự giãi bày những tình cảm, những khát vọng sâu xa của nhà văn trước cuộc đời,

trước những vấn đề có ý nghĩa thân thiết đối với con người. Dù văn học viết về những sự

cố lớn lao: bão táp cách mạng, chiến tranh, hay chỉ diễn tả một tiếng chuông chùa, một bờ

tre, ruộng lúa bao giờ ta cũng tìm thấy hình bóng, tâm sự của con người gửi gắm ở bên trong.

pdf 4 trang Người đăng kidphuong Lượt xem 1207Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem tài liệu "Chủ đề Lý Luận văn học - Đề 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chủ đề 12: LÝ LUẬN VĂN HỌC 
Đề 4: Vì sao có thể nói văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người? Liên 
hệ với thực tế văn học. 
* BÀI LÀM 
Văn học là trong những loại hình nghệ thuật có từ rất sớm, gắn bó thiết thân với đời 
sống tinh thần của con người ngay từ thuở xa xưa. Dù dưới hình thức nào thì nó vẫn là sự 
phản ánh thế giới khách quan qua thế giới chủ thể của nghệ sĩ. Tác phẩm nghệ thuật chân 
chính là sự giãi bày những tình cảm, những khát vọng sâu xa của nhà văn trước cuộc đời, 
trước những vấn đề có ý nghĩa thân thiết đối với con người. Dù văn học viết về những sự 
cố lớn lao: bão táp cách mạng, chiến tranh, hay chỉ diễn tả một tiếng chuông chùa, một bờ 
tre, ruộng lúa bao giờ ta cũng tìm thấy hình bóng, tâm sự của con người gửi gắm ở bên 
trong. Với tư cách là cụ thể của hoàn cảnh, là động lực của sự phát triển xã hội, là nguồn 
gốc của mọi sáng kiến, phát minh. Con người với tất cả niềm vui, nỗi buồn, tâm tư khát 
vọng, thành đạt hay khổ đau luôn luôn là đối tượng trung tâm của văn học, là mối quan tâm 
hàng đầu của nghệ sĩ chân chính. Tình yêu thương đối với con người là nguồn động lực căn 
bản nhất thúc đẩy ngòi bút của mọi nhà văn chân chính. Nhà văn Nga Tolstoi đã từng viết: 
“Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”. Còn Goethe thì nói: “Những điều đầu 
tiên mà thiên nhiên cần là tình yêu nồng nàn đối với cuộc sống”. Nữ văn sĩ Pháp Elsa 
Trisolet thì diễn tả tình yêu ấy bằng hình ảnh thật cụ thể: “Nhà văn là người cho máu”. Đó 
là một tình yêu bao gồm cả sự hi sinh to lớn. Tác phẩm chân chính đúng là sản phẩm của trí 
tuệ, trái tim, mồ hôi và cả nước mắt nữa của người nghệ sĩ, là kết quả của quá trình nếm 
trải, nung nấu, cảm xúc dào dạt – cái mà người ta gọi là cảm hứng trong sáng tạo nghệ 
thuật. Không ai làm thơ làm văn trong trạng thái khô cằn, chai sạn xúc cảm. Cảm hứng ấy 
có thể bắt đầu từ niềm vui sướng, tự hào hay tin tưởng, phấn khởi, nhưng với nghệ sĩ chân 
chính thì chẳng bao giờ có niềm vui hời hợt, giản đơn. Bởi vì cuộc sống con người, trong 
tính hiện thực của nó, niềm vui luôn luôn đi đôi với nỗi buồn, ánh sáng luôn tồn tại bên 
cạnh bóng tối, cái xấu luôn luôn xen lẫn bên cạnh cái tốt, hạnh phúc thường đi liền với khổ 
đau, bất hạnhVà những khổ đau của con người xưa nay vốn là nỗi nhức nhối, bức xúc 
nhất thôi thúc người nghệ sĩ cầm bút. 
Chính nhà văn Xô viết V.Raxpuchin đã diễn đạt tình cảm ấy một cách giản dị chân 
thành: “Nếu tôi viết, ấy là vì tôi cảm thấy đau ở đâu đấy trong người” với Huygo thì bể khổ 
của nhân loại là hầm mỏ khai thác không vơi cạn của đời ông. Truyện kiều là tiếng khóc đứt 
ruột. Chí Phèo là tiếng thét phẫn uất đòi quyền làm ngườiNhững tác phẩm chân chính, 
bất tử với thời gian thường là những tác phẩm diễn tả những xung đột có khi đầy bi kịch 
giữa cái thật và cái giả, giữa cái thiện và cái ác, giữa bóng tối và ánh sáng, giữa cái cao 
thượng và cái thấp hèn, ghê tởm  Tuy nhiên “thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là 
cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”. Đó chính là khả năng nhân đạo mà văn học 
chân chính có thể mang lại cho con người. 
Ở đây có mấy vấn đề cần lưu ý: 
1/ Sở dĩ nói văn học chân chính chứ không phải văn học nói chung vì trong sự tồn 
tại của văn học nhân loại quả là những tác phẩm vì con người, nâng cao phẩm giá con người 
nhưng cũng có thứ văn chương làm hạ thấp phẩm giá con nguời. Có những tác phẩm là kết 
quả của thao thức khổ đau, hi sinh, trăn trở, nhưng cũng không thiếu thứ văn chương làm 
thuê, làm công cụ, bồi bút tô son trát phấn cho giai cấp thống trị trong những xã hội đã suy 
tàn, mục ruỗng Có thứ văn chương bất tử, sống mãi với muôn đời, có thứ văn chương rẻ 
tiền sẽ bị quên lãng với thời gian. Chủ nghĩa nhân đạo, lòng yêu thương tôn trọng con người 
là thước đo căn bản nhất để đánh giá mọi giá trị văn học chân chính . “Những người khốn 
khổ” của Hugo, “ Sống lại” của L.Tolstoi, Truyện Kiều của Nguyễn Du là những tác 
phẩm trong đó tác giả còn bộc lộ nhiều quan điểm sai lầm về tư tưởng và những giải pháp 
cải tạo xã hội, nhiều nhân vật cũng đã trải qua bao nhiêu vấp ngã, giằng xé, lầm lẫn 
nhưng đó lại là những tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ sống mãi với thời gian; bởi sức 
mạnh cảm hóa sâu xa, bởi lòng yêu thương con người mênh mông, sâu thẳm; bởi thái độ 
căm ghét, phẫn uất trước những thế lực xấu xa, tàn ác đã giày xéo, chà đạp lên con người. 
Đó chính là lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn có khả năng nhân đạo hóa con người, làm cho con 
người tin hơn ở những điều thiện, ở khả năng vươn tới cái cao cả, cao thượng, kể cả những 
con người đã trải qua và chịu đựng những điều ác khủng khiếp do xã hội và có khi do chính 
mình gây ra. 
 2/ Mặt khác, nói tới quá trình nhân đạo hóa của văn học không phải chỉ là khả năng 
gợi lòng trắc ẩn, động tâm, thương cảm đối với những cảnh ngộ bất hạnh đói nghèo diễn ra 
trong xã hội, dù điều đó cũng là một phương tiện đáng quí. Khả năng nhân đạo hóa còn bộc 
lộ ở sự tự ý thức về bản thân, tự nhận diện bản thân trước những điều xấu, tốt, thiện, ác 
mà tác phẩm gợi lên. Người ta đã nói đến sự “thanh lọc” tâm hồn của văn học, hay hình 
thức “sám hối” của bản thân trước lương tâm của quá trình tiếp nhận tác phẩm là như thế. 
Đọc Nam Cao không phải chỉ là để cảm thông với Điền, với Thứ, với Hộ với một cuộc 
sống bị “cơm áo ghì sát đất”, nó đang có nguy cơ giết chết những ước mơ và những tình 
cảm nhân ái, cao thượng. Những tác phẩm của Nam Cao còn như một tấm gương soi để độc 
giả hôm nay tự nhận diện chính mình, không ngừng vượt lên hoàn cảnh bản thân để sống 
một cách xứng đáng hơn, tốt đẹp hơn. Nếu trong tác phẩm “Đời thừa”, nhân vật Hộ là một 
trí thức hoàn toàn tốt thì tác phẩm có thể không làm ta xúc động đến thế. Sự giằng xé giữa 
nhân cách cao thượng, hành vi đẹp đẽ, hoài bão to lớn, tấm lòng vị tha của một “chàng trai 
trẻ vốn say mê lí tưởng” với những bận rộn tẹp nhẹp vô nghĩa lí, với sự câu thúc của đời 
sống tầm thường hàng ngày, cả những cẩu thả, bất lương trong nghề cầm bút và những hành 
vi “khốn nạn, tàn nhẫn của hắn” đối với Từ – người vợ rất đỗi đáng thương của y và những 
giằng xé nội tâm không nguôi trong lòng Hộ, lại làm người đọc xót xa thương cảm đến tận 
đáy lòng. Chính điều đó đã làm nên giá trị nhân văn rất lớn của tác phẩm. Chính bản thân 
tác phẩm “Đời thừa” đã tạo được giá trị đích thực mà tác giả của nó hằng mong mỏi. “Nó 
chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng 
lòng thương, tình bác ái, sự công bình Nó làm cho con người gần người hơn”. Những giá 
trị nhân văn to lớn như thế lại được hình thành từ những mẫu chuyện nhỏ nhặt, vặt vãnh 
nhưng đã được viết bằng một ngòi bút chân thực, tài hoa và nhất là bằng một cuộc sống 
cũng đầy mâu thuẫn, đau xót, trăn trở của chính nhà văn Nam Cao. Ở đây có vấn đề viết cái 
gì và viết như thế nào. Không nên đồng nhất nội dung phản ánh và sự phản ánh. Nói cho rõ 
hơn, ở đây tình cảm, lương tri, thái độ trân trọng đối với giá trị tinh thần của con người đã 
rọi sáng vào từng cảnh ngộ trong câu văn, làm dấy lên ở người đọc một mối liên tưởng đồng 
cảm, đau xót. Đó mới là những yếu tố tạo nên sức thuyết phục sâu xa đối với người đọc. 
Đọc “Đời thừa” ta có cảm giác như nhà văn đã rọi vào chỗ sâu kín nhất của tâm tư. Quá 
trình nhân đạo hóa sẽ hình thành từ sự đồng cảm ấy. Ở “Lão Hạc” cũng vậy. Tác phẩm gợi 
lên lòng thương cảm nơi người đọc từ cái chết thê thảm của lão vì lòng thương con và vì 
tình trạng khốn quẫn của lão. Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm chủ yếu lại không chỉ 
nằm ở đấy. Tác phẩm gợi lên những tình cảm vị tha, cao thượng đầy tự trọng của một lão 
già nông dân chất phác, hiền lành: biết đâu lão tự tử còn vì lòng tự trọng bị tổn thương, bị 
lương tâm cắn rứt vì nỡ lừa dối một con chó! (trong khi còn biết bao con người mang mặt 
người nhưng lòng lang dạ thú “người với người là chó sói”). Phát hiện ở chỗ sâu xa nhất 
những nét đẹp lương tri con người, tác phẩm đóng vai trò tích cực trong việc làm cho con 
người trở nên tốt đẹp, nhân ái hơn. Đó là chưa kể đến những câu văn chan chứa một lòng vị 
tha độ lượng, một thái độ làm hòa với người khác và với chính mình, những tình cảm nhân 
văn, nhân đạo là bài học về cách sống, cách xử thế, cách nhìn nhận và đánh giá con người 
làm cho lòng ta trở nên thanh thản hơn, cao thượng hơn. “Chao ôi! Đối với những người ở 
quanh ta, nếu ta không cố tâm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu 
xa, bỉ ổi toàn là những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người 
đáng thương, không bao giờ ta thương “Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một 
người đau chân, có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác 
hơn. Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của 
người ta bị nỗi lo lắng buồn đau ích kỷ che lấp mất. Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không 
nỡ giận”. 
 Chao ôi, nếu ai cũng nghĩ được như thế thì quan hệ giữa con người với con người sẽ 
tốt đẹp biết bao nhiêu. Những câu văn xót xa mà đẹp đẽ như thế đã vượt ra khỏi muôn khổ 
của tác phẩm, nó nói về cái tình người muôn thuở cần có, nó có khả năng nhân đạo hóa con 
người, làm cho con người trở nên cao thượng và nhân ái hơn. 
 3/ Ở đây nói nhân đạo hóa để nhấn mạnh sức cảm hóa mạnh mẽ của nghệ thuật. 
Con người là sản phẩm của tạo hóa, nó vốn đẹp đẽ “nhân chi sơ, tính bản thiện”. Nhưng xã 
hội có thể làm tha hóa con người thì văn chương chân chính lại có khả năng tác động ngược 
lại. Tình thương, lòng nhân đạo sẽ cảm hóa, thức tỉnh lương tri vốn luôn ẩn chứa trong 
chiều sâu nội tâm con người, có khả năng “nhân đạo hóa” con người. Nói “khả năng” vì 
không nhất thiết bao giờ cũng có thể đạt được như vậy. Nó còn tuỳ thuộc vào sự tiếp nhận 
riêng biệt của chủ thể cảm thụ. Nhưng một nhà văn chân chính bao giờ cũng nung nấu, khát 
vọng tác phẩm của mình sẽ đem lại một giá trị tinh thần nào đấy, nhằm cứu vãn con người. 
Ngay cả Truyện Kiều, dù Nguyễn Du có viết: 
“Lời quê chắp nhặt dông dài 
Mua vui cũng được một vài trống canh” 
thì ta cũng hiểu đó chỉ là một cách nói khiêm nhường. Khi trút lên ngòi bút bao nỗi đớn đau 
về cuộc đời, đương nhiên nhà văn khao khát những tấm lòng tri âm, những giọt nước mắt 
đồng cảm: 
Bất tri tam bách dư niên hậu 
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ? 
 Mấy thế kỉ trôi qua, Truyện Kiều và những tác phẩm đầy nhân đạo của Nguyễn Du 
mãi mãi là người bạn tâm tình, là nguồn sức mạnh của biết bao thế hệ độc giả, kể cả những 
độc giả trẻ tuổi hiện nay: 
Dẫu súng đạn nặng lòng ra hỏa tuyến 
Đi đường dài, em giữ “Truyện Kiều” theo. 
 (Chế Lan Viên – Gửi Kiều cho em Năm đi đánh Mỹ) 
 Không thể nào có thể nói hết khả năng nhân đạo hóa của văn học đối với con người. 
Nhưng quả thật, đọc một tác phẩm văn học chân chính, ta có cảm giác thật hạnh phúc và 
sung sướng như đang được đối diện, tâm tình trò truyện với một người bạn thông minh, 
nhân ái, từng trải, như đang được chia sẻ nỗi buồn, niềm vui, tâm tư, ước vọng; như đang 
được đón nhận ý chí, niềm tin, nghị lực trong cuộc hành trình đầy thử thách của cuộc sống. 
Biết bao nhiêu tác phẩm văn chương đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế 
hệ. Nói như Gorki :“sách vở đã chỉ cho tôi chỗ đứng của mình trong đời sống, nói cho tôi 
biết rằng con người thật là vĩ đại và đẹp đẽ, rằng con người luôn luôn hướng về cái tốt đẹp 
hơn, rằng con người đã làm nên nhiều thứ trên trái đất và vì thế mà họ đã chịu biết bao đau 
khổ”. Và cũng chính Gorki đã tuyên ngôn: “Con người – cái tên mới đẹp làm sao, mới vinh 
quang làm sao. Con người phải tôn trọng con người”. 
Hiểu biết con người, hiểu chính mình, cảm thông chia sẻ với nỗi khổ đau của g của 
mình trong đời sống, nói cho tôi biết rằng con người thật là vĩ đại và đebuồn, niềm vui, tâm 
tư, ước vọng; như đang được đón nhận ý chí, niềm tin, nghị lực trong cuộc hành trình đầy tà 
truyện với môcon người, biết căm ghét cái giả dối, ti tiện, tàn ác, biết hướng tới cái chân, 
thiện, mĩ; biết sống một cách chân thật, nhân ái, cao thượng đó là những dấu hiệu của quá 
trình ‘nhân đạo hóa” mà văn học chân chính đã và mãi mãi sẽ đem lại cho con người, vì 
hạnh phúc của con người. 
* * * 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfLy luan van hoc De 4.pdf